26. Ta hãy lui về đỉnh Nguyệt San,
Nơi khe suối diễm lệ tuôn tràn,
Suối khe phủ ngập đầy hoa lá,
Mãi mãi chốn kia, gió nhẹ nhàng
Thầm thì len qua ngàn cổ thụ,
Mải mê trò chuyện, phút bình an.

1976. Ukkā milācā bandhanti dīpe pajā mamaṃ khādituṃ patthayanti, mittaṃ sahāyañca vadehi senaka ācikkha ñātivyasanaṃ dijānaṃ. 

1976. “Những người nhà quê thắt những cây đuốc ở trên hòn đảo. Chúng mong muốn ăn thịt những đứa con của thiếp. Thưa chàng diều hâu, chàng hãy nói với bạn bè và thân hữu, chàng hãy báo tin cho các con chim về sự bất hạnh của quyến thuộc.”

1. Dân chúng đang nhen lửa đảo này,
Ðể ăn bầy trẻ chốc liền đây,
Hỡi chàng! Mau bảo cùng bè bạn
Nguy hiểm con ta cấp báo ngay.

1977. Dijo dijānaṃ pavarosi pakkhi ukkusarāja saraṇaṃ taṃ upemi, pajā mama khādituṃ patthayanti luddā milācā bhava me sukhāya.

1977. “Hỡi bạn chim, bạn là con chim hàng đầu của loài chim. Hỡi chim ưng chúa, tôi đi đến nương tựa bạn. Những người nhà quê tàn bạo mong muốn ăn thịt những đứa con của tôi. Xin bạn hãy đem lại sự an lành cho tôi.”

2. Chim chúa là ngài, hỡi chúa công!
Nay ta tìm chốn chúa an thân,
Dân làng săn muốn bắt bầy trẻ,
Xin chúa ban cho bạn nỗi mừng!

1978. Mittaṃ sahāyañca karonti paṇḍitā kāle akāle sukhamesamānā, karomi te senaka etamatthaṃ ariyo hi ariyassa karoti kiccaṃ.

1978. “Các bậc sáng suốt kết thành bạn bè và thân hữu trong lúc tầm cầu sự an lành vào ban ngày và ban đêm. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi, bởi vì người cao thượng thực hiện việc cần phải làm đối với người cao thượng.”

3. Ðúng lúc hay không, bậc trí nhân
Kết giao cùng bảo vệ thân bằng,
Vì chim Ưng hỡi, ta hành động,
Bạn thiện giúp nhau những lúc cần.

1979. Yaṃ hoti kiccaṃ anukampakena ariyassa ariyena kataṃ tavayidaṃ, attānurakkhī bhava mā aḍayha
lacchāma putte tayi jīvamāne.

1979. “Việc nào là việc cần phải làm vì lòng thương tưởng bởi người cao thượng đối với người cao thượng, việc này đã được bạn thực hiện. Bạn hãy có sự bảo vệ bảo thân, chớ để bị cháy bỏng. Chúng tôi sẽ giữ được các con lúc bạn đang còn sống.”

4. Bạn thiện giúp nhau: ấy việc cần,
Ngài làm vì xót bạn gian nan,
Bình an con trẻ, ngài còn sống,
Cẩn thận, đừng cho thể lực tàn.

1980. Taveva rakkhāvaraṇaṃ karonto sarīrabhedāpi na santasāmi, karonti heke sakhinaṃ sakhāro pāṇaṃ cajanti satamesa dhammo.

1980. “Trong khi làm công việc bảo vệ che chở cho chính ngươi, ngay cả những sự tiêu tan thân xác, ta cũng không sợ sệt. Bởi vì một số bạn bè làm cho những người bạn bè, họ từ bỏ mạng sống; đó là bản thể của những người tốt.”

5. Khi ta canh giữ ở cây này
Ta chẳng lo rằng nếu chẳng may
Ta mất mạng mình vì chúng bạn,
Thiện nhân hành động vẫn như vầy!
Thế nên, bạn hãy làm vì bạn
Dù chính đời mình kết liễu ngay.

1981. Sudukkaraṃ kammamakā aṇḍajāyaṃ vihaṅgamo, atthāya kuraro putte aḍḍharatte anāgate.

1981. “Con chim thuộc loài noãn sanh này đã làm công việc vô cùng khó làm. Vì lợi ích, con chim ưng đã bảo vệ các con chim con trước lúc nửa đêm.”

6. Vương điễu noãn sinh lượn cõi không
Ðã làm một việc khổ vô cùng,
Chúa Ưng, trước lúc màn đêm xuống,
Canh giữ bầy chim nhỏ vạn an.

1982. Cutāpi eke khalitā sakammunā mittānukampāya patiṭṭhahanti, puttā mamaṭṭā gatimāgatosmi atthaṃ caretha mama vārichanna.

1982. “Một số người bị lỗi lầm, thậm chí bị tử vong bởi vì việc làm của mình, cũng vẫn tương trợ vì lòng thương tưởng bạn bè. Hỡi người bạn ẩn mình ở trong nước, các con của tôi bị khổ sở, tôi đã đi đến giang sơn của bạn, xin bạn hãy làm điều lợi ích giúp tôi.”

7. Cho dầu những kẻ bị sa chân
Qua lắm việc làm ác, bất nhân,
Cũng có cơ vươn mình tiến được,
Nếu xin nhờ giúp đỡ khi cần.
Các con ta gặp khi nguy khốn,
Ta chẳng bay ngay đến bạn vàng,
Hỡi bạn ngâm mình trong đáy nước,
Giúp nhà tôi, hãy vội lên đàng!

1983. Dhanena dhaññena ca attanāva mittaṃ sahāyañca karonti paṇḍitā, karomi te senaka etamatthaṃ ariyo hi ariyassa karoti kiccaṃ.

1983. “Các bậc sáng suốt kết thành bạn bè và thân hữu vì tài sản, vì thóc lúa, và còn vì bản thân nữa. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi, bởi vì người cao thượng thực hiện việc cần phải làm đối với người cao thượng.”

8. Thiện nhân đối với một thân bằng
Cho cả đồ dùng lẫn bản thân,
Vì bạn, hỡi Ưng! Ta hoạt động,
Thiện nhân giúp đỡ bạn khi cần.

1984. Appossukko tāta tuvaṃ nisīda putto pitu carati atthacariyaṃ, ahaṃ carissāmi tavetamatthaṃ senassa putte paritāyamāno.

1984. “Cha thương, cha hãy ngồi yên, không phải nhọc công. Con trai làm công việc lợi ích thay cha. Con sẽ thực hiện nghĩa cử ấy cho cha, trong khi bảo vệ những người con của chim diều hâu.”

9. Xin cha an dưỡng, hỡi cha thân,
Việc của cha, con sẽ lãnh phần.
Con phụng sự cha là tốt nhất,
Con đi cứu cả tổ chim bằng.

1985. Addhā hi tāta satamesa dhammo putto pitu yaṃ caretha atthacariyaṃ, appeva maṃ disvā pavaḍḍhakāyaṃ senassa putte na viheṭhayeyyuṃ.

1985. “Quả đúng vậy, con thương! Đó là bản thể của những người tốt! Là việc con trai nên làm công việc lợi ích thay cha. Tuy nhiên, sau khi nhìn thấy cha có thân hình vạm vỡ, chúng sẽ không quấy nhiễu những người con của chim diều hâu.”

10. Cứ làm việc thiện, hỡi Rùa con,
Con phải giúp cha, thật chánh chơn,
Song chúng chỉ tha bầy trẻ nhỏ,
Vì cha, người thầy lớn khôn ngoan.

1986. Pasū manussā migaviriyaseṭṭha bhayadditā seṭṭhamupabbajanti, puttā mamaṭṭā gatimāgatosmi tvaṃ nosi rājā bhava me sukhāya.

1986. “Hỡi vị tinh tấn hạng nhất ở loài thú, khi bị áp lực bởi nỗi sợ hãi, loài vật và loài người nhờ cậy đến vị tối cao. Các con của tôi bị khổ sở, tôi đã đi đến giang sơn của bạn. Bạn là vị vua của chúng tôi, xin bạn hãy đem lại sự an lành cho tôi.”

11. Oai hùng bậc nhất của muôn loài,
Loài thú vật kia lẫn mọi người,
Chạy đến anh hùng lúc hoảng sợ:
Chin non gặp nạn, giúp nhà tôi,
Ngài là chúa tể muôn loài đó,
Vì thế nên tôi phải đến nơi.

1987. Karomi te senaka etamatthaṃ āyāma te taṃ disataṃ vadhāya, kathaṃ hi viññū pahu sampajāno na vāyame attajanassa guttiyā.

1987. “Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi. Chúng ta hãy đi đến để giết chết đám thù địch ấy của ngươi. Tại làm sao mà một người có sự hiểu biết, có khả năng, trong khi biết rõ mà lại không ra sức bảo vệ cho người của mình?”

12. Ta giúp chim ngay, hỡi bạn Ưng!
Mau, ta đi giết bọn cừu nhân,
Hiển nhiên, bậc trí nhiều thông hiểu
Cần gắng công che chở bạn thân.

1988. Mittañca kayirātha suhaddayañca ayirañca kayirātha sukhehi ayiro, nivatthakojo va sarebhihantvā modāma puttehi samaṅgibhūtā.

1988. “Nên kết thành bạn bè với người có tâm tốt. Và người cao thượng nên làm việc cao thượng vì những điều hạnh phúc. Tựa như người có mặc áo giáp chặn đứng các mũi tên, chúng ta được ân sủng, hãy vui sướng với các con.

13. Rõ ràng kết bạn hữu đầy nhà,
Gặp bạn hiền: hoan lạc hiện ra,
Tên bắn trên quân bào bất lợi,
Ta mừng, an ổn các con ta.

1989. Sakamittassa kammena sahāyassāpalāyino, kūjantamupakūjanti lomasā hadayaṅgamaṃ.

1989. Nhờ vào hành động nỗ lực của bạn bè thân thuộc, của con sư tử không bỏ rơi bạn hữu, các con chim hót líu lo tiếng hót đi vào trái tim.

14. Nhờ công giúp của bạn chân tình,
Chim bạn đến mong góp sức mình,
Ðối đáp, chim non kêu ríu rít
Làm say lòng mẹ với âm thanh.

1990. Mittaṃ sahāyaṃ adhigamma paṇḍito so bhuñjati puttapasuṃ dhanaṃ vā, ahañca puttā ca patī ca mayhaṃ mittānukampāya samaṅgibhūtā.

1990. Sau khi tìm đến bạn bè thân hữu, bậc sáng suốt ấy thụ hưởng con cái và thú vật, hay tài sản. Nhờ vào lòng thương tưởng của bạn bè, tôi cùng các con và người chồng của tôi được toàn vẹn.

15. Người khôn nhờ bạn giúp bàn tay,
Sống với đàn con hạnh phuc đầy,
Ta với chồng con cùng đứng vững
Vì thân bằng hữu mến thương lây.

1991. Rājāvatā sūravatā ca attho sampannasakkhissa bhavanti hete, so mittavā yasavā uggatatto asmiñca loke modati kāmakāmī.

1991. Mục đích là có thể đạt được bởi người kết bạn với vua và bởi người kết bạn với dũng sĩ, bởi vì người có bạn bè đạt được những điều này. Người có sự đeo đuổi ước muốn ấy có bạn, có danh tiếng, có vị thế đã được nâng lên, và vui sướng ở thế gian này.

16. Dân cần bảo vệ bởi vua quan,
Những vị tình thân hữu vẹn toàn,
Hạnh phúc chàng mong: uy lực đủ
Là người hưng thịnh, lắm thân bằng.

1992. Karaṇīyāni mittāni daḷiddenāpi senaka, passa mittānukampāya samaggamhā sañātake.

1992. Thưa chàng diều hâu, dầu là người nghèo khó cũng vẫn nên kết giao bạn bè. Chàng hãy nhìn xem, nhờ vào lòng thương tưởng của bạn bè, chúng ta được đoàn tụ cùng với các thân quyến.

17. Này Ưng, cần phải kiếm thân bằng
Dù bạn nghèo hèn hoặc yếu non,
Nay hãy xem: nhờ tình thắm thiết
Ta và gia quyến thảy bình an.

1993. Sūrena balavantena yo mettiṃ kurute dijo, evaṃ so sukhito hoti yathāhaṃ tvañca senakā ”ti.

3. Mahā-ukkusajātaka.

1993. Thưa chàng diều hâu, con chim nào kết giao tình thân hữu với bậc dũng sĩ, với người có sức mạnh, con chim ấy được hạnh phúc như vậy, giống như là thiếp và chàng vậy.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada