17. Ko-si này với đại hân hoan
Thực phẩm làm phong phú ngập tràn
Ðãi uống ăn La-môn, Thánh giá,
Bản thân vị ấy thật hiền lương.

1950. Upanīyatidaṃ maññe cande lohitamadena majjāmi, vijahāmi jīvitaṃ pāṇā me cande nirujjhanti.

1950. “Hỡi nàng Candā, ta nghĩ rằng mạng sống này bị dẫn đi. Ta bị xây xẩm bởi sự sôi sục của máu. Hỡi nàng Candā, ta đang lìa bỏ sự sống, các hơi thở của ta bị ngưng lại.

1. Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn,
Máu ta đang chảy xiết, tuôn tràn,
Ta gần mất hết nguồn sinh lực,
Hơi thở đang thoi thóp, hỡi nàng!

1951. Osadhi me dukkhaṃ me hadayaṃ me dayhate nitammāmi, tava candiyā socantiyā na naṃ aññehi sokehi.

1951. Mạng sống của ta chìm xuống, ta có sự đau đớn. Trái tim ta bị đốt nóng, ta mệt nhọc vô cùng. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.

2. Ta đang chìm ngập với đau thương,
Lòng dạ ta đang đốt cháy bừng,
Song bởi chính nàng sầu, Nguyệt hỡi,
Mà tim ta cảm xúc khôn lường.

1952. Tiṇamiva vanamiva miyyāmi nadī aparipuṇṇiyāva sussāmi, tava candiyā socantiyā na naṃ aññehi sokehi.

1952. Ta bị héo tàn, tựa như cọng cỏ (bị phơi ở tảng đá bị đốt nóng), tựa như khu rừng (bị chặt cây tận gốc). Ta bị khô cạn, tựa như dòng sông không không còn đầy nước. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.

3. Như cỏ cây, ta cứ lụi tàn,
Héo hon như suối cạn khô dần,
Lòng đầy xúc cảm, Can-dà hỡi,
Vì nỗi buồn đau của chính nàng.

1953. Vassaṃva sare pāde imāni massūni vattare mayhaṃ, tava candiyā socantiyā na naṃ aññehi sokehi.

1953. Những giọt nước mắt này của ta tuôn chảy tựa như nước mưa rơi xuống chảy thành dòng ở chân núi. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.”

4. Dòng lệ tuôn từ cặp mắt ta,
Như mưa chân núi chảy vào hồ,
Bởi vì lòng dạ đầy thương cảm,
Cho nỗi sầu nàng, hỡi Nguyệt Nga!

1954. Pāposi kho rājaputta yo me icchitapatiṃ varākiyā, vijjhi vanamūlasmiṃ soyaṃ viddho chamā seti.

1954. “Thưa hoàng tử, ngài quả là độc ác! Ngài đã bắn trúng người chồng yêu dấu của thiếp, người phụ nữ khốn khổ. Chồng thiếp đây đã bị trúng tên, nằm dài trên mặt đất, dưới gốc cây trong rừng.

5. Ôi khổ thân ta, chúa bạo tàn!
Nhà ngươi đã bắn trọng thương chàng,
Nay chàng nằm đó, trên đất lạnh,
Dưới một gốc cây, giữa núi ngàn.

1955. Imaṃ mayhaṃ hadayasokaṃ paṭimuñcatu rājaputta tava mātā, yo mayhaṃ hadayasoko kimpurisaṃ avekkhamānāya.

1955. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn ở trái tim của thiếp trong khi thiếp  nhìn thấy người chồng nhân điểu, hãy để cho người mẹ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái tim này của thiếp.

6. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
Ta mong thái hậu phải đền thay!
Mối sầu đang bóp tim tan nát,
Khi thấy chàng yêu đã chết đây.

1956. Imaṃ mayhaṃ hadayasokaṃ paṭimuñcatu rājaputta tava jāyā, yo mayhaṃ hadayasoko kimpurisaṃ avekkhamānāya. 

1956. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn ở trái tim của thiếp trong khi thiếp  nhìn thấy người chồng nhân điểu, hãy để cho người vợ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái tim này của thiếp.

7. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
Ta mong vương hậu phải đền thay!
Mối sầu đang bóp tim tan nát,Khi thấy chàng yêu đã chết đây.

1957. Mā ca putte mā ca patiṃ addakkhi rājaputta tava mātā, yo kimpurisaṃ avadhi adūsakaṃ mayhakāmāhi.

1957. Thưa hoàng tử, chớ để cho người mẹ của ngài nhìn thấy những người con và người chồng của bà là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.

8. Mong thái hậu nay khóc phụ hoàng,
Và sau lại phải khóc hoàng nam,
Kẻ vì tham dục đang làm ác
Cho chính chồng ta thật uổng oan.

1958. Mā ca putte mā ca patiṃ addakkhi rājaputta tava jāyā, yo kimpurisaṃ avadhi adūsakaṃ mayhakāmāhi.

1958. Thưa hoàng tử, chớ để cho người vợ của ngài nhìn thấy những người con và người chồng của bà là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.”

9. Ước mong vương hậu phải chờ trông
Tình cảnh mất con lẫn mất chồng,
Là kẻ vì tham, làm việc ác
Cho chàng vô tội, chính phu quân.

1959. Mā tuvaṃ cande rujji mā soci vanatimiramattakkhi, mama tvaṃ hohisi bhariyā rājakule pūjitā nārī.

1959. “Này nàng Candā, nàng chớ khóc lóc. Hỡi nàng có con mắt như bông hoa vanatimira, nàng chớ sầu muộn. Nàng sẽ trở thành người vợ của ta, nàng sẽ là người phụ nữ được tôn vinh ở hoàng cung.”

10. Thôi đừng than khóc, chớ sầu thương,
Ta chắc rừng đêm quáng mắt nàng:
Cung điện vua ban nàng diễm phúc,
Nàng làm hoàng hậu của quân vương!

1960. Api nūnahaṃ marissaṃ nacapanāhaṃ rājaputta tava hessaṃ, yo kimpurisaṃ avadhi adūsakaṃ mayhakāmāhi.

1960. “Thưa hoàng tử, chắc chắn rằng thiếp sẽ chết, chứ thiếp sẽ không bao giờ thuộc về ngài, là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.”

11. Không, ta đành kết liễu cuộc đời!
Ta chẳng bao giờ muốn lấy ngươi,
Ngươi giết chồng ta nào có tội,
Tất cả vì tham ái ta thôi!

1961. Api bhīruke api jīvitukāmike kimpurisi gaccha himavantaṃ, tālissatagarabhojane araññe taṃ migā ramissanti.

1961. “Này cô nàng nhút nhát, này cô nàng ước muốn được sống, này nàng nhân điểu, nàng hãy đi về núi Hi-mã-lạp. Này cô nàng có thức ăn là các lá cây tālissa và tagara, các con thú ở trong rừng sẽ vui đùa với nàng.”

12. Sống cho thỏa nguyện, hỡi tiên nương,
Thôi hãy quay về đỉnh Tuyết Sơn,
Ta biết có nhiều loài thú vật
Ăn toàn cỏ hoa, mến rừng hoang.

1962. Te pabbatā tā ca kandarā tā ca giriguhāyo, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1962. “Những ngọn núi ấy, các động núi ấy, và các hang núi ấy, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

13. Ðây giữa vùng đồi núi, đỉnh cao,
Trong nhiều thung lũng, dưới hang sâu,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì bóng chàng nay thiếp thấy đâu?

1963. Te paṇṇasanthatā ramaṇiyā vāḷamigehi anuciṇṇā, tattha8 taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1963. Những tấm thảm lá đáng yêu ấy, nơi được lai vãng bởi các loài thú dữ, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

14. Thú rừng lang bạt khắp nơi nơi,
Lá trải trên nhiều chốn đẹp tươi,
Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì nay chàng vắng bóng trên đời?

1964. Te pupphasanthā ramaṇiyā vāḷamigehi anuciṇṇā, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1964. Những tấm thảm hoa đáng yêu ấy, nơi được lai vãng bởi các loài thú dữ, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

15. Dã thú tung hoành, hoa ngát hương
Lan tràn bao chốn đẹp hoang đường,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?

1965. Acchā savanti girivaranadiyo kusumābhikiṇṇasotāyo, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1965. Những dòng sông quý báu từ ngọn núi chảy tràn có nước trong vắt, những con suối được rải rắc với những bông hoa, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

16. Trong veo, nhiều suối chảy ven đồi,
Hoa dại muôn ngàn, phủ khắp nơi,
Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì nay chàng bỏ thiếp đơn côi?

1966. Nīlāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1966. Những đỉnh núi ngọc lục của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

17. Xanh thẳm là đối núi Tuyết San,
Khi nhìn, đồi núi đẹp vô vàn,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?

1967. Pītāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1967. Những đỉnh núi vàng ròng của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào? 

18. Bao đỉnh Tuyết Sơn nhuộm ánh vàng,
Nhìn xem đồi núi đẹp huy hoàng,
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì thiếp còn đâu thấy bóng chàng?

1968. Tambāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1968. Những đỉnh núi đồng đỏ của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

19. Ðồi núi Tuyết Sơn đỏ rực lên,
Núi đồi tuyệt diệu lúc nhìn xem!
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì thiếp còn đâu thấy bóng tiên?

1969. Tuṅgāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1969. Những đỉnh núi cao vút của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

20. Tuyết Sơn đỉnh nhọn vút trời cao,
Ðồi núi nhìn xem đẹp biết bao!
Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì nay thiếp chẳng thấy chàng đâu?

1970. Setāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.

1970. Những đỉnh núi bạc trắng ngần của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

21. Lấp lánh, Tuyết Sơn đỉnh trắng ngần,
Nhìn xem đồi núi đẹp muôn phần!
Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
Vì chẳng còn trông thấy Nguyệt quân?

1971. Citrāni himavato pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1971. Những đỉnh núi đủ màu sắc của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

22. Tuyết Sơn lại đổi sắc cầu vồng,
Tuyệt diệu là khi đứng ngắm trông!
Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
Vì không còn được thấy lang quân?

1972. Yakkhagaṇasevite gandhamādane osadhehi sañchanne, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1972. Ở ngọn núi Gandhamādana được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể Dạ-xoa, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?

23. Ðồi Hương thân thiết với yêu ma,
Khắp chốn phủ đầy vạn cỏ hoa,
Thiếp phải làm gì, chàng nguyệt hỡi,
đâu còn thấy bóng Can-da?

1973. Kimpurisasevite gandhamādane osadhehi sañchanne, tattha taṃ apassantī kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ. 

1973. Ở ngọn núi Gandhamādana được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể nhân điểu, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?”

24. Thần tiên yêu mến ngọn đồi Hương,
Cây cỏ bao quanh khắp nẻo đường,
Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
đâu còn thấy bóng chàng thương?

1974. Vande te pāde ayirabrahme yo me icchitapatiṃ varākiyā, amatena abhisiñci samāgatasmiṃ piyatamena. 

1974. Thưa đấng Phạm Thiên cao cả, thiếp xin đảnh lễ hai bàn chân của ngài, vị đã rưới nước bất tử lên người chồng yêu dấu của thiếp, người phụ nữ khốn khổ, để thiếp được đoàn tụ với người yêu dấu nhất.

25. La-môn, Thánh giả đáng tôn vinh!
Cho phận thiếp đây kém phước lành
Ðược thấy phu quân đầy ái kính,
Rảy lên chàng thánh dược hồi sinh!

1975. Vicarāma dāni girivaranadiyo kusumābhikiṇṇasotāyo, nānādumavasanāyo piyaṃvadā aññamaññassā ”ti.

2. Candakinnarajātaka.

1975. Giờ đây, hai ta hãy du ngoạn những dòng sông quý báu ở ngọn núi, những con suối được rải rắc với những bông hoa, những nơi trú ngụ của nhiều loại cây khác biệt, với những lời nói yêu thương trao đổi giữa hai người.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada