1933. Sampannaṃ sālikedāraṃ suvā bhuñjanti kosiya, paṭivedemi te brahme na naṃ vāretumussahe. 

1933. “Thưa ông Kosiya, các con chim két ăn ruộng lúa đã được chín tới. Thưa vị Bà-la-môn, tôi báo cho ngài biết. Tôi không có thể ngăn cản chúng.

1. Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay,
Song tôi xin nói để ngài hay
Ðàn Anh vũ phá tan đồng lúa,
Tôi chẳng làm sao đuổi chúng bay.

1934. Eko ca tattha sakuṇo so tesaṃ sabbasundaro, bhutvā sāliṃ yathākāmaṃ tuṇḍenādāya gacchati.

1934. Và ở nơi đó có một con chim. Nó có vẻ đẹp toàn diện trong số những con chim ấy. Sau khi ăn lúa sāli theo như ý thích, nó còn dùng mỏ gắp lấy lúa rồi ra đi.”

2. Có một chim kia đẹp nhất đàn,
Trước tiên tìm lúa chín mà ăn,
Rồi mang một nắm vào trong mỏ,
Ðể sẵn mai sau những lúc cần.

1935. Oḍḍentu vāḷapāsāni yathā bajjhetha so dijo, jīvañca naṃ gahetvāna ānayetha mamantike.

1935. “Hãy giăng các bẫy lông đuôi ngựa để cho con chim ấy có thể bị vướng vào. Và ngươi hãy bắt sống nó, rồi mang đến chỗ của ta.”

3. Ðặt bẫy lông đuôi ngựa thế này,
Chim kia rồi cũng bị sa ngay,
Bắt cho cẩn thận, chim còn sống,
Rồi lấy chim về gặp lão đây.

1936. Ete bhutvā pivitvā ca pakkamanti vihaṃgamā, eko baddhosmi pāsena kiṃ pāpaṃ pakatammayā.

1936. “Các con chim này sau khi ăn uống rồi bay đi. Một mình ta bị cột vào bẫy. Tội ác nào đã được tạo ra bởi ta?”

4. Bầy chim ăn uống thật no say,
Rồi chúng liền tung cánh vút bay,
Bị bắt mình ta vào chiếc bẫy,
Ta đà gây tội lỗi gì đây?

1937. Udaraṃ nūna aññesaṃ suva accodaraṃ tava, bhutvā sāliṃ yathākāmaṃ tuṇḍenādāya gacchasi.

1937. “Này chim két, ta nghĩ rằng những con chim khác có bao tử bình thường, còn ngươi có bao tử vượt trội. Sau khi ăn lúa sāli theo như ý thích, ngươi còn dùng mỏ gắp lấy lúa rồi ra đi.

5. Bụng chim lớn vượt các chim kia:
Trước hết chim ăn bữa thỏa thuê,
Sau đó ngậm thêm đầy mỏ nữa,
Trước khi giương cánh rộng bay về.

1938. Koṭṭhannu tattha pūresi suva verannu te mayā, puṭṭho me samma akkhāhi kuhiṃ sāliṃ nidhīyasi.

1938. Có phải ngươi làm cho đầy kho thóc ở nơi kia? Này chim két, phải chăng ngươi có thù hận với ta? Này chim, được ta hỏi, ngươi hãy trả lời, ngươi cất giấu lúa sāli ở đâu?”

6. Chim có một kho phải đổ vào?
Và chim ghét lão đắng cay sao?
Lão đòi chim phải trình cho đúng:
Chim để kho kia ở chốn nào?

1939. Na me veraṃ tayā saddhiṃ koṭṭho mayhaṃ na vijjati, iṇaṃ muñcāmiṇaṃ dammi sampatto koṭisimbaliṃ,
nidhimpi tattha nidahāmi evaṃ jānāhi kosiya.

1939. “Tôi không có thù hận với ông, kho thóc của tôi không có. Tôi trả nợ và tôi cho vay nợ. Tôi đi đến chóp đỉnh của rừng cây bông vải, tôi cũng có cất giữ của chôn giấu tại nơi ấy. Này ông Kosiya, ông hãy biết như vậy.”

7. Ta chẳng ghét ngài, Ko-si-ya,
Ta không hề có vựa kho nhà,
Khi vào rừng ở, ta hoàn nợ,
Và cũng cho vay mượn nữa mà,
Nơi đó ta dồn kho báu mãi,
Ðây là câu giải đáp phần ta.

1940. Kīdisaṃ te iṇadānaṃ iṇamokkho ca kīdiso, nidhiṃ nidhānaṃ akkhāhi atha pāsā pamokkhasi.

1940. “Việc cho vay nợ của ngươi là như thế nào? Và việc trả nợ là như thế nào? Ngươi hãy giải thích việc cất giữ của chôn giấu, rồi ngươi sẽ được thoát khỏi cái bẫy.”

8. Món nào chim lại muốn cho vay?
đó là công phải trả đây?
Cho biết kho nào đang tích trữ,
Rồi ta sẽ thả tự do bay.

1941. Ajātapakkhā taruṇā puttakā mayha kosiya, te maṃ bhatā bharissanti tasmā tesaṃ iṇaṃ dade.

1941. “Này ông Kosiya, những chim con của tôi còn nhỏ, cánh còn chưa mọc. Được tôi nuôi dưỡng, chúng sẽ phụng dưỡng tôi; bằng cách đó, tôi cho chúng vay nợ.

9. Lũ chim non nớt ở nhà ta,

Ðôi cánh còn chưa mọc đủ ra,
Chúng sẽ nuôi ta mai mốt nọ,
Nay ta cho chúng mượn vay mà.

1942. Mātā pitā ca me vuddhā jiṇṇakā gatayobbanā, tesaṃ tuṇḍena hātūna muñce pubbe kataṃ iṇaṃ.

1942. Mẹ và cha của tôi đã lớn tuổi, đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ. Sau khi mang lại lúa cho họ bằng cái mỏ, tôi có thể trả nợ đã vay trước đây.

10. Mẹ cha già yếu cả song thân,
Hai vị xa dần hạn tuổi xuân,
Với lúa ta mang trong chiếc mỏ
Ðem vê dâng trả các ân nhân.

1943. Aññepi tattha sakuṇā khīṇapakkhā sudubbalā, tesaṃ puññatthiko dammi taṃ nidhiṃ āhu paṇḍitā.

1943. Ở nơi ấy, còn có những con chim khác có cặp cánh bị liệt, vô cùng yếu ớt. Là người mong mỏi phước báu, tôi cho lúa đến chúng; các bậc sáng suốt đã gọi việc ấy là của chôn giấu.

11. Còn lắm chim đang sống lẻ đơn,
Bầy chim yếu đuối lại nhiều hơn,
Ta cho bọn chúng vì từ mẫn:
Ðây chỗ hiền nhân gọi trữ tồn.

1944. Edisaṃ me iṇadānaṃ iṇamokkho me ediso, nidhiṃ nidhānaṃ akkhātaṃ evaṃ jānāhi kosiya.

1944. Việc cho vay nợ của tôi là như thế ấy. Việc trả nợ của tôi là như thế ấy. Việc cất giữ của chôn giấu đã được giải thích. Này ông Kosiya, ông hãy biết như vậy.”

12. Ðây là phần nợ muốn cho vay,
Ðấy lại là công phải trả đầy,
Nơi nọ là kho đang tích trữ,
Giờ ta phân giải hết lời này.

1945. Bhaddako vatayaṃ pakkhī dvijo paramadhammiko, ekaccesu manussesu ayaṃ dhammo na vijjati.

1945. “Con chim này quả thật là hiền thiện, là loài lưỡng sanh có đạo đức tuyệt vời! Đạo đức này ở một số người không tìm thấy.

13. Ðạo lý cuộc đời tối thượng thay!
Làm bao công đức chính chim này!
Từ mồm nhiều kẻ trên trần thế
Chẳng có hề nghe luật lệ vầy.

1946. Bhuñja sāliṃ yathākāmaṃ saha sabbehi ñātihi, punāpi suva passemu piyaṃ me tava dassanaṃ.

1946. Ngươi hãy ăn lúa sāli theo như ý thích cùng với tất cả thân quyến. Này chim két, chúng ta hãy gặp lại nhau. Sự xuất hiện của ngươi được ta yêu thích.”

14. Ăn cho vừa ý thật no nê,
Và mọi chim thân cũng thỏa thuê,
Anh vũ, rồi ta còn gặp lại,
Ta yêu hình bóng bạn quay về.

1947. Bhuttañca pītañca tavassamamhi ratī ca no kosiya te sakāse, nikkhittadaṇḍesu dadāhi dānaṃ, jiṇṇe ca mātāpitaro bharassu.

1947. “Này ông Kosiya, chúng tôi đã được ăn và đã được uống ở chỗ trú ngụ của ông, và chúng tôi có sự vui thích ở bên ông. Ông hãy ban phát vật thí nơi những người đã buông bỏ gậy gộc, và ông hãy phụng dưỡng mẹ cha già yếu.”

15. Trong nhà ngài đấy, Ko-si-ya,
Ta uống ăn, tình bạn thiết tha,
Xin hãy cúng dường cho những vị
Trong đời gánh nặng đã quăng xa,
Và xin phụng dưỡng song thân đủ,
Khi các ngài kia đã xế tà.

1948. Lakkhī vata me udapādi ajja yo addasāsiṃ pavaraṃ dijānaṃ, suvassa sutvāna subhāsitāni kāhāmi puññāni anappakāni.

1948. “Quả thật, Nữ thần May Mắn đã đến với ta ngày hôm nay! Ta đây đã gặp được con chim cao quý của loài chim. Sau khi lắng nghe những lời khéo nói của chim két, ta sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.”

16. Thần nữ Cát Tường hẳn đến đây
Khi ta nhìn thấy chúa chim này,
Ta nguyền thực hiện nhiều công đức,
Chẳng có bao giờ muốn nghỉ tay,
Vì giọng chim thần nay lảnh lót,
Ta vừa nghe thật tuyệt vời thay!

1949. So kosiyo attamano udaggo annañca pānañcabhisaṅkharitvā, annena pānena pasannacitto santappayi samaṇe brāhmaṇe cā ”ti.

1. Sālikedārajātaka.

1949. “Ông Kosiya ấy có ý hài lòng, phấn chấn, đã cho chuẩn bị cơm ăn và nước uống, rồi với tâm tịnh tính, đã làm thỏa mãn các vị Sa- môn và Bà-la- môn với cơm ăn và nước uống.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada