1769. Ciñcāmāṇavikā mātā devadatto ca me pitā, ānando paṇḍito nāgo sāriputto ca devatā, ahaṃ tadā rājaputto evaṃ dhāretha jātakan ”ti.
1769. “Kiều nữ Ciñcā là vương hậu, Devadatta là vua cha của Ta, Ānanda là con rắn sáng suốt, Sāriputta là vị Thiên nhân, khi ấy Ta là vị hoàng tử, các ngươi hãy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh là như vậy.”
15. Kế mẫu ta là ả Cin-ca,
Ðề-bà-đạt, ấy chính vua cha,
Ta là thái tử Liên Hoa nọ,
Còn vị thần non thuở ấy là
Xá-lợi-phất giờ đây Trưởng lão,
Thiện xà chúa nọ A-nan-đà,
Và này Tăng chúng, Ta tuyên bố
Kết thúc Tiền thân ấy của ta.
1770. Kāni kammāni kubbānaṃ kathaṃ viññū parakkame, amittaṃ jāneyya medhāvī disvā sutvā ca paṇḍito.
1770. “Sau khi nhìn thấy và lằng nghe kẻ đang làm những hành động gì mà các bậc sáng suốt có sự thông minh, có thể nhận biết đây là thù? Người hiểu biết nên nỗ lực như thế nào (để nhận ra kẻ ấy)?”
1. Làm sao người trí phải tinh cần,
Phân biệt làm sao được thực chân,
Những việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ rằng kẻ ấy chính cừu nhân?
1771. Na naṃ umhayate disvā na ca naṃ paṭinandati, cakkhūni cassa na dadāti paṭilomaṃ ca vattati.
1771. “Gã không tươi cười sau khi thấy vị kia, không vui mừng với vị kia, không đáp trả những ánh mắt của vị này, và xử sự theo cách ngược lại.
2. Khi ngài thăm, nó chẳng tươi cười,
Nó chẳng tỏ ra muốn đón mời
Nó chẳng quay nhìn theo cách ấy,
Và trả lời không có với ngài.
1772. Amitte tassa bhajati mitte tassa na sevati, vaṇṇakāme nivāreti akkosante pasaṃsati.
1772. Gã giao thiệp với những kẻ thù của vị ấy, không phục vụ các bạn bè của vị ấy, ngăn chận những người có ý muốn tán dương, khen ngợi những kẻ đang khiển trách (vị ấy).
3. Kẻ thù ngài, nó lại tôn vinh,
Bạn thiết của ngài, nó miệt khinh,
Nó cản người khen ngài tốt đẹp,
Những người phỉ báng, nó hoan nghênh.
1773. Guyhañca tassa nakkhāti tassa guyhaṃ na gūhati, kammaṃ tassa na vaṇṇeti paññassa nappasaṃsati.
1773. Gã không nói điều bí mật cho vị ấy, không che dấu điều bí mật của vị ấy, không tán dương việc làm của vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này.
4. Nó chẳng hề tâm sự mảy may,
Chuyện ngài tâm sự, nó phơi bày,
Việc ngài làm, chẳng hề khen tốt,
Cũng chẳng hề khen trí tuệ ngài.
1774. Abhave nandati tassa bhave tassa na nandati, acchariyaṃ bhojanaṃ laddhā tassa nuppajjate sati, tato naṃ nānukampati aho sopi labheyyito.
1774. Gã hân hoan ở sự không thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự thành công của vị ấy. Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, không tưởng nhớ đến vị ấy. Gã không có lòng trắc ẩn đến vị kia từ phần chia ở nơi ấy, (nói rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi này.’
5. Khi ngài hạnh phúc nó không mừng,
Ô nhục ngài mang, nó thỏa lòng,
Nếu được món ngon, không nghĩ tới
Tên ngài, trong dạ chẳng buồn thương,
Cũng không kêu lớn: ô này bạn,
Ta ước bạn ta cũng có phần!
1775. Iccete soḷasākārā amittasmiṃ patiṭṭhitā, yehi amittaṃ jāneyya disvā sutvā ca1 paṇḍito.
1775. Như thế, mười sáu biểu hiện này được thiết lập ở kẻ thù; nhờ vào những điều ấy, người sáng suốt sau khi nhìn thấy và lằng nghe có thể nhận biết đây là thù.”
6. Mười sáu điều trên, cớ rõ ràng
Cho ngài thấy được một cừu nhân,
Nếu người có trí nào nghe thấy,
Sẽ biết kẻ thù để nhận chân.
1776. Kāni kammāni kubbānaṃ kathaṃ viññū parakkame, mittaṃ jāneyya medhāvī disvā sutvā ca1 paṇḍito.
1776. “Sau khi nhìn thấy và lằng nghe người đang làm những hành động gì mà các bậc sáng suốt có sự thông minh có thể nhận biết đây là bạn? Người hiểu biết nên nỗ lực như thế nào (để nhận ra người ấy)?”
7. Làm sao người trí phải tinh cần
Phân biệt làm sao được thực chân,
Các việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ ra người ấy chính thân bằng?
1777. Pavuttaṃ cassa sarati āgataṃ abhinandati, tato kelāyito hoti vācāya paṭinandati.
1777. “Người ấy ghi nhớ việc đã đi xa của vị này, vui mừng việc trở lại của vị này. Do việc ấy, người được yêu thích đáp lại sự hân hoan qua lời nói.
8. Kẻ ấy nhớ người lúc vắng xa,
Mừng vui khi bạn trở về nhà,
Trong lòng hoan hỷ lên cao độ,
Chàng cất tiếng liền đón rước ta.
1778. Mitte tasseva bhajati amitte tassa na sevati, akkosante nivāreti vaṇṇakāme pasaṃsati.
1778. Người ấy giao thiệp với những bạn bè của chính vị ấy, không phục vụ các kẻ thù của vị ấy, ngăn chận những kẻ đang khiển trách, khen ngợi những người có ý muốn tán dương (vị ấy).
9. Chàng chẳng tôn vinh kẻ chống ngài,
Chỉ ưa phụng sự bạn ngài thôi,
Những ai phỉ báng, chàng ngăn cản,
Ai tán tụng ngài, lại thấy vui.
1779. Guyhañca tassa akkhāti tassa guyhañca gūhati, kammañca tassa vaṇṇati paññaṃ tassa pasaṃsati.
1779. Người ấy nói điều bí mật cho vị ấy, che đậy điều bí mật của vị ấy, tán dương việc làm của vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này.
10. Chàng kể nhiều tâm sự với ngài,
Chuyện ngài tâm sự, chẳng phơi bày,
Ðề cao những việc ngài làm được.
Khen ngợi tài năng bạn thật hay.
1780. Bhave ca nandati tassa abhave tassa na nandati, acchariyaṃ bhojanaṃ laddhā tassa uppajjate sati, tato taṃ anukampati aho sopi labheyyito.
1780. Người ấy hân hoan ở sự thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự không thành công của vị ấy. Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, liền tưởng nhớ đến vị ấy. Người ấy có lòng trắc ẩn đến vị ấy từ phần chia ở nơi đó, (nói rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi này.
11. Chàng khổ lòng khi bạn ố danh
Chàng vui khi nghe bạn được an lành
Nếu được gì cao lương mỹ vị,
Chàng liền nghĩ đến bạn thân mình,
Cảm thương ngài quá, chàng kêu lớn:
Ta ước ao phần bạn được dành!
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada