1754. Với tâm ý được hài lòng tột đỉnh, trẫm sẽ ban cho tất cả các bậc sáng suốt các khanh mỗi vị một cỗ xe kéo bởi lừa cái, mỗi vị một ngôi làng hạng nhất, giàu có.”

16. Cứ mỗi hiền khanh, trẫm thưởng ban,
Một xe, la cái, một ngôi làng,
Giàu sang thượng hạng cho người trí,
Trẫm thích thú lời lẽ ngọc vàng !

1755. Nādiṭṭhā parato dosaṃ aṇuṃthūlāni sabbaso, issaro paṇaye daṇḍaṃ sāmaṃ appaṭivekkhiya. 

1755. “Sau khi chưa nhìn thấy tội lỗi của người khác, sau khi chưa tự mình xem xét các tội nhỏ lớn về mọi khía cạnh, vị chúa tể không nên ra lệnh hình phạt.

1. Vua chẳng nên trừng phạt tội hình
Mà không nghe lý lẽ phân minh,
Cũng không tự xét suy cho kỹ
Mọi mặt, dù to, nhỏ thật tình.

1756. Yo ca appaṭivekkhitvā daṇḍaṃ kubbati khattiyo, sakaṇṭakaṃ so gilati jaccandhova samakkhikaṃ.

1756. Và vị Sát-đế-lỵ nào không xem xét mà thực hành hình phạt, vị ấy là kẻ nuốt phải xương, tựa như người mù bẩm sinh ăn phải ruồi.

2. Tướng quân trừng phạt lỗi lầm sai
Trưc lúc đem ra xử hẳn hòi,
Giống kẻ sinh ra mù cặp mắt,
Ăn toàn xương xẩu lẫn đàn ruồi.

1757. Adaṇḍiyaṃ daṇḍayati daṇḍiyañca adaṇḍiyaṃ, andhova visamaṃ maggaṃ na jānāti samāsamaṃ. 

1757. Người gia hình kẻ không đáng bị phạt và không gia hình kẻ đáng bị phạt, tựa như người mù đi ở đường gồ ghề không nhận biết chỗ bằng phẳng và không bằng phẳng.

3. Ai phạt kẻ không có tội gì,
Ðể người có tội lọt qua đi,
Khác gì hơn mt người mù mắt
Bụi trên đường cái quá gồ ghề.

1758. Yo ca etāni ṭhānāni aṇuṃthūlāni sabbaso, sudiṭṭhaṃ cānusāseyya sace voharitum arahati.

1758. Và vị nào có thể chỉ dạy sau khi đã xem xét kỹ lưỡng các sự việc lớn nhỏ ấy về mọi khía cạnh, vị ấy quả thật xứng đáng để phát biểu.

4. Người xét xem toàn thể sự tình
Trong việc dù to, nhỏ thật rành,
Cai trị nước nhà theo cách ấy
Xứng ngôi chúa tể giữa quần sinh.

1759. Nekantamudunā sakkā ekantatikhiṇena vā, attaṃ mahante ṭhāpetuṃ tasmā ubhayamācare.  

1759. Không thể thiết lập bản thân vào địa vị quan trọng theo cách quá nhu nhược hay theo cách quá khắc nghiệt; vì thế, nên hành xử cả hai cách.

5. Người nào ở địa vị cao sang
Xử sự không nên quá dễ dàng,
Cũng chẳng nên làm khe khắt quá,
Song song thực hiện cả đôi đàng.

1760. Paribhūto mudu hoti atitikkho ca veravā, etañca ubhayaṃ ñatvā anumajjhaṃ samācare. 

1760. Người nhu nhược thì bị khinh miệt, và người quá khắc nghiệt thì có kẻ thù nghịch. Sau khi biết cả hai điều ấy, nên thực hành theo lối trung dung.

6. Quá dễ dàng hay bị miệt khinh,
Khắt khe thường nổi trận lôi đình,
Giữa hai điều ấy cần thông hiểu
Và giữ đường trung chính hợp tình.

1761. Bahumpi ratto bhāseyya duṭṭhopi bahubhāsati, na itthikāraṇā rāja puttaṃ ghātetumarahasi. 

1761. Người bị ái luyến có thể nói nhiều, người bị sân hận cũng nói nhiều. Tâu bệ hạ, không vì nguyên nhân phụ nữ, mà ngài có thể giết hại con trai.”

7. Ngưi đang nổi giận, hỡi Quân vương,
Cũng nói nhiều như kẻ bất lương,
Và thế là đừng vì phụ nữ,
Giết vương nhi nối dõi tông đường.

1762. Sabbo ca loko ekanto itthī ca ayamekikā, tenāhaṃ paṭipajjissaṃ gaccha pakkhipatheva naṃ. 

1762. “Tất cả thế gian là một phe, và người phụ nữ này chỉ một mình. Vì thế, trẫm sẽ thực hành theo lời vương hậu. Ngươi hãy đi. Các khanh hãy ném nó xuống vực.”

8. Cả nưc này đang đứng một bên,
Bên kia ái hậu một mình riêng,
Với nàng, tuy vậy, ta khăng khít,
Thả nó vào hang, hãy cút liền!

1763. Anekatāle narake gambhīre ca suduttare, pātito giriduggasmiṃ kena tvaṃ tattha nāmari.

1763. “Con đã bị ném vào khe núi, ở địa ngục có nhiều cây thốt-nốt, sâu thẳm, và khó vượt qua; vì sao con đã không chết ở nơi ấy?”

9. Con bị thả vào miệng vực sâu,
Bên sườn núi dựng, dốc đèo cao,
Chẳng ai cứu giúp, rừng dừa rậm,
Con vẫn bình an bởi cách nào?

1764. Nāgo nāgabalo tattha thāmavā girisānujo, paccaggahī maṃ bhogehi tenāhaṃ tattha nāmariṃ. 

1764. “Ở nơi ấy, có con rắn có oai lực của loài rắn, có sức mạnh, được sanh ra ở vùng núi đồi, đã đón nhận con bằng những vòng thân thể cuộn tròn; vì thế, con đã không chết ở nơi ấy.”

10. Một mãnh xà kia đủ lực hùng
Sinh ra sống dưi đất trong rừng,
Bắt con cuộn lấy trong mình rắn,
Con được bình an, thoát tử thần.

1765. Ehi taṃ paṭinessāmi rājaputta sakaṃ gharaṃ, rajjaṃ kāresi bhaddante kiṃ araññe karissasi. 

1765. “Này hoàng tử, hãy đến, trẫm sẽ đưa con về lại nhà của mình. Con hãy cai trị xứ sở. Này người đạo đức, con sẽ làm gì ở trong rừng?”

11.Cha sẽ đưa con, hỡi thiếu nhi,
Quay về cung điện của cha đi,
Con làm gì nữa trong rừng núi,
Hạnh phúc con nay sẽ trị vì.

1766. Yathā gilitvā baḷisaṃ uddhareyya salohitaṃ, uddharitvā sukhī assa evaṃ passāmi attanaṃ. 

1766. “Giống như con cá cắn lưỡi câu, khi kéo lên thì có chảy máu. Sau khi đã kéo lên thì có sự thoải mái; con nhìn thấy bản thân mình tương tự như vậy.”

12. Kẻ nào đã nuốt móc mồi câu,
Khi kéo móc ra, máu đỏ trào,
Kéo được móc rồi là hạnh phúc,
Lòng con hỷ lạc tuyệt thanh cao.

1767. Kinnu tvaṃ baḷisaṃ brūsi kiṃ tvaṃ brūsi salohitaṃ, kinnu tvaṃ ubbhataṃ brūsi tamme akkhāhi pucchito.

1767. “Con nói cái gì về lưỡi câu? Con nói cái gì về có chảy máu? Con nói cái gì về đã được kéo lên? Được hỏi, con hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”

13. Sao con nói đến móc mồi câu?
Con nói vậy sao đến máu đào?
Con lại nói sao về rút móc?
Cha nay muốn biết việc kia nào?

1768. Kāmāhaṃ baḷisaṃ brūmi hatthiassaṃ salohitaṃ, cattāhaṃ ubbhataṃ brūmi evaṃ jānāhi khattiya.

1768. “Con nói sự ham muốn là lưỡi câu, voi và ngựa là có chảy máu. Con nói đã bị từ bỏ là đã được kéo lên. Thưa vị Sát- đế- lỵ, ngài hãy nhận biết như thế.”

14. Dục tham là chính móc mồi câu,
Con nói ngựa voi, chính máu đào,
Con rút ra nhờ lìa thế tục,
Cha cần biết chuyện ấy, muôn tâu.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada