1742. Và trong khi tôi bố thí vào mọi lúc như vậy, thưa vị chúa của chư Thiên, các của cải này sẽ cạn kiệt. Kế đó, tôi sẽ xuất gia, thưa Thiên chủ Sakka, sau khi tôi từ bỏ các dục tùy theo mức giới hạn (của chúng).”

20. Sak-ka, bố thí mãi như vầy,
Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
Tham dục loại nào cũng chạy bay.

1743. Yesaṃ na kadāci bhūtapubbaṃ sakkhiṃ sattapadampi imasmiṃ loke, jātā amittā duve sahāyā paṭisandhāya caranti kissa hetu. 

1743. “Đối với những kẻ thù trước đây chưa bao giờ có sự đối diện trong khoảng cách bảy bước chân ở thế gian này, giờ họ đã trở thành hai người bạn sống liên kết với nhau; nguyên nhân là thế nào?

5. Hai kẻ thù theo lẽ tự nhiên,
Chưa từng bảy bưc đứng kề bên,
Trở thành bạn thiết không rời nữa,
Duyên cớ là đâu? Các bậc hiền!

1744. Yadi me ajja pātarāsakāle paṇhaṃ na sakkuṇeyyātha vattumetaṃ, raṭṭhā pabbājayissāmi vo sabbe na hi mattho duppaññajātikehi. 

1744. Nếu hôm nay, vào bữa ăn sáng của trẫm, các khanh không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy, trẫm sẽ trục xuất tất cả các khanh ra khỏi xứ sở, bởi vì với những kẻ có tuệ tồi thì không có lợi ích cho trẫm.”

6. Nếu không giải đáp trưc trưa nay,
Trẫm sẽ đuổi luôn hết cả bầy,
Trẫm không cần những người ngu nữa,
Vậy hãy tìm lời giải đáp ngay.

1745. Mahājanasamāgamamhi ghore janakolāhalasaṅgamamhi jāte, vikkhittamanā anekacittā pañhaṃ na sakkuṇoma vattumetaṃ. 

1745. “Ở nơi tập trung đông đảo dân chúng, ở nơi hãi hùng, ở cuộc hội họp ồn ào của loài người, chúng tôi có ý nghĩ bị rối loạn, có tâm tánh thất thường, không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy.

7. Giữa đám đông người tụ tập trung,
Thật ồn ào quá, trí mông lung,
Không sao tập hợp tư duy được,
Để giải đáp ngay, tâu Đi vương.

1746. Ekaggacittā ca ekamekā rahasigatā atthaṃ nicintayitvā, paviveke sammasitvāna dhīrā atha vakkhanti janinda atthametaṃ.

1746. Tâu vị chúa của loài người, các bậc sáng trí với tâm được chuyên nhất và chỉ một mình, đã đi đến nơi thanh vắng, sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng về ý nghĩa, sau khi nắm vững được vấn đề ở nơi cô quạnh, các vị sẽ nói về ý nghĩa ấy.”

8. Nhưng h khi nào đưc đc cư,
Bình tâm tĩnh trí đ suy tư,
Vấn đ xem xét cho tường tận,
Sẽ giải đáp ngay, hãy đợi chờ.

1747. Uggaputtarājaputtiyānaṃ urabbhamaṃsaṃ piyaṃ manāpaṃ, na te sunakhassa adenti maṃsaṃ atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa. 

1747. “Đối với các trai trẻ dòng quý tộc và các trai trẻ thuộc hoàng gia, thịt cừu là đáng yêu, đáng chuộng. Những vị ấy không ăn thịt chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

9. Bọn hành khất trẻ, các ông hoàng,
Rất thích thịt dê đực ngọt ngon,
Thịt chó, họ đều không thọ dụng,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

1748. Cammaṃ vihananti eḷakassa assapiṭṭhattharaṇasukhassa hetu, na ca te sunakhassa attharanti atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa. 

1748. Họ lột da của loài cừu vì nguyên nhân của sự thoải mái trong việc trải lên lưng ngựa. Và họ không trải lên bằng da của loài chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

10. Họ lấy da dê phía núi rừng,
Phủ che ngựa quý ở trên lưng,
Còn da của chó không dùng được,
Nhưng chó dê cùng kết bạn thân.

1749. Āvellitasiṅgiko hi meṇḍo na ca sunakhassa visāṇāni atthi, tiṇabhakkho maṃsabhojano ca atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa. 

1749. Bởi vì cừu là loài thú có sừng cong, và không có các sừng ở loài chó. Cừu có thức nhai là cỏ và chó có thức ăn là thịt. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

11. Cặp sừng cong xoắn, chú dê rừng,
Nhưng chó lại không có cặp sừng,
Một con ăn c, con ăn thịt,
Tuy thế, chó, dê, kết bạn thân.

1750. Tiṇamāsi palāsamāsi meṇḍo na ca sunakho tiṇamāsi no palāsaṃ, gaṇheyya suṇo sasaṃ biḷāraṃ atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.

1750. Cừu là loài ăn cỏ và là loài ăn lá. Còn chó không ăn cỏ và không ăn lá. Chó có thể săn bắt thỏ và mèo. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

12. Cừu dê ăn cỏ, lá cây luôn,
Cỏ, lá thì con chó chẳng ăn,
Chó thích ăn mèo hay thịt thỏ,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

1751. Aḍḍhaṭṭhapādo catuppadassa meṇḍo aṭṭhanakho adissamāno, chādiyamāharati ayaṃ imassa maṃsaṃ āharati ayaṃ amussa. 

1751. “Là con thú bốn chân thuộc loài tứ túc, con cừu có tám móng (mỗi chân có hai móng) không bị phát hiện. Con chó này mang lại vật che đậy (rơm, cỏ) cho con cừu kia; con cừu kia mang lại thịt cho con chó này.

13. Con dê cao tám tất dùng chân,
Tám móng, không ai thấy, vội mang,
Món thịt về cho con chó ấy,
Chó đem c đến chú dê rừng.

1752. Pāsādagato videhaseṭṭho vitihāraṃ aññamañña bhojanānaṃ, addakkhi kira sakkhi taṃ janindo bobhukkhassa ca puṇṇamukhassa cetaṃ.

1752. Vị thủ lĩnh xứ sở Videha đi đến tòa lâu đài, vị chúa của loài người đã thực sự nhìn thấy tận mắt việc trao đổi về thức ăn giữa con thú này với con kia. Và điều ấy xảy ra giữa con chó và con cừu.”

14. Vi-đề-ha, chúa toàn dân chúng,
Đứng tại thượng lầu tận mắt trông,
Việc lấy thức ăn trao đổi ấy,
Giữa dê, chó kết mối thân bằng.

1753. Lābhā vata me anapparūpā yassa medisā paṇḍitā kulamhi, pañhassa gambhīragataṃ nipuṇamatthaṃ paṭivijjhanti subhāsitena dhīrā. 

1753. “Thật vậy, lợi ích có hình thức không phải là nhỏ đã có cho trẫm, là việc trẫm đây có được các bậc sáng suốt như thế này ở gia tộc! Bằng lời nói khéo léo, các bậc sáng trí thấu triệt ý nghĩa vi tế và sâu sắc của câu hỏi.

15. Trẫm có các bậc hiền giả tại triều
Thật là ích lợi biết bao nhiêu,
Vấn đề tế nhị và uyên áo,
Họ thấu triệt, lời lẽ tối ưu.

1754. Assatarīrathañca ekamekaṃ phītaṃ gāmavarañca ekamekaṃ, sabbesaṃ vo dammi paṇḍitānaṃ paramapatītamano subhāsitenā ”ti.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada