1721. Khi nào những kẻ xảo trá, gian lận, có ý nghĩ gây khổ đau cho người khác sẽ xuất hiện ở thế gian, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

12. Khi tâm người chứa rẫy ý tà,
Những kẻ dối gian, chẳng thật thà,
Quanh quẩn vào ra trong thế giới,
Thì ta sẽ thả Chó đen mà.

1722. Neva kiṇāmi napi vikkiṇāmi na cāpi me sannicayo ca atthi, sukiccharūpaṃ vatidaṃ parittaṃ patthodano nālamayaṃ duvinnaṃ. 

1722. “Ta chẳng những không mua, cũng không bán. Thậm chí, sự tích lũy của ta cũng không có. Thật vậy, phần có được vô cùng khó khăn này là ít ỏi. Lượng cơm này không đủ cho hai người.”

1. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
Không của cho vay hoặc biếu không,
Chút cháo thí này rất khó kiếm,
Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!

1723. Appamhā appakaṃ dajjaṃ anumajjhato majjhakaṃ, bahumhā bahukaṃ dajjā adānaṃ nūpapajjati. 

1723. “Có chút ít thì nên bố thí chút ít, có vừa phải nên bố thí vừa phải, có nhiều nên bố thí nhiều, không bố thí là không thích đáng.

2. Của ít cũng nên bố thí mà,
Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.

1724. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.

1724. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

3. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

1725. Moghañcassa hutaṃ hoti moghañcāpi samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ. 

1725. “Người nào một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của người này là vô ích, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là vô ích.

4. Nào có ích chi lễ tế thần,
Hoài công ước vọng ở trong tâm,
Nếu ông ăn cháo và không muốn
Cho thực khách đây một ít phần.

1726. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ. 

1726. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

5. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm
Ăn riêng chng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

1727. Saccaṃ tassa hutaṃ hoti saccaṃ cāpi samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ. 

1727. “Người nào không một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của người ấy là sự thật, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là sự thật.

6. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
Nếu ông không một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.

1728. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ. 

1728. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

7. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

1729. Sarañca juhati poso bāhukāya gayāya ca, doṇe timbarutitthasmiṃ sīghasote mahāvahe. 

1729. “Người cúng tế ở hồ nước, và ở nhiều nơi, ở Gayā, ở Doṇa, ở bến nước Timbaru, ở dòng nước chảy xiết, ở sông lớn.

8. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết dòng,
Ai đem dâng l cúng chư thần,
Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng,

1730. Atra cassa hutaṃ hoti atra cassa samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ. 

1730. Sự cúng tế của người này là ở đây, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là ở đây. Người này không một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước).

ởng kết quả do dâng lễ vật,
Đt thành ước nguyện ở trong lòng,
Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.

1731. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ. 

1731. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

9. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

1732. Baḷisaṃ hi so niggilati dīghasuttaṃ sabandhanaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ.

1732. “Người nào một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), kẻ ấy nuốt phải lưỡi câu có sợi cước dài, có sự trói buộc.

10. Như cá tham ăn vội nuốt mau
Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
Khi có khách này kế cận sao?

1733. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.

1733. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

11. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

1734. Uḷāravaṇṇā vata brāhmaṇā ime ayañca vo sunakho kissa hetu, uccāvacaṃ vaṇṇanibhaṃ vikubbati akkhātha no brāhmaṇā ke nu tumhe.

1734. “Thật vậy, các vị Bà-la-môn này có màu sắc cao quý. Và đây là con chó của các ngài, nguyên nhân là thế nào? Nó biến hóa thành cao, thấp, có màu sắc và ánh sáng. Thưa các vị Bà-la-môn, xin các ngài hãy nói cho chúng tôi, các ngài là những người nào vậy?”

12. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn
Đang đứng trên cao giữa cõi không,
Con chó các ngài sao lạ vậy
Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
Dầu là chỉ một mình con chó,
Các vị là ai, nói thật chân.

1735. Cando ca suriyo ca ubho idhāgatā ayaṃ pana mātali devasārathi, sakkohamasmi tidasānamindo eso ca kho pañcasikhoti vuccati. 

1735. “Canda và Suriya, cả hai đã đi đến nơi này. Còn đây là Mātali, người điều khiển Thiên xa. Ta là Sakka, Chúa của cõi Tam Thập. Và vị kia được gọi là Pañcasikha.

13. Kìa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đui ngươi chy đấy mà.

1736. Pāṇissarā mudiṅgā ca murajāḷambarāni ca, suttamenaṃ pabodhenti paṭibuddho ca nandati. 

1736. Các điệu nhạc, các trống nhỏ, các trống một mặt, và các trống lớn đánh thức người đang ngủ ấy. Và người ấy vui mừng khi được thức tỉnh.

14. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng
Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
Làm tim chàng rộn rã vui mừng.

1737. Ye kecime maccharino kadariyā paribhāsakā samaṇabrāhmaṇānaṃ, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti. 

1737. Những người nào là những người bỏn xẻn, keo kiệt, những kẻ mắng nhiếc các vị Sa- môn và Bà-la-môn, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến địa ngục.

15. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham
Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Phải vào địa ngục trú thân tàn.

1738. Ye kecime suggatimāsasānā dhamme ṭhitā saṃyame saṃvibhāge, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā sugatiṃ vajanti. 

1738. Những người nào là những người đang mong mỏi cõi Trời, đứng vững ở đạo đức, ở sự tự chế ngự, và ở sự san sẻ, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến chốn an vui.

16. Kiên trì chánh hạnh, đt thiên đàng,
Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Sẽ lên thiên giới sống bình an.

1739. Tvaṃ nosi ñāti purimāsu jātisu so maccharī rosako pāpadhammo, taveva atthāya idhāgatamhā mā pāpadhammo nirayaṃ apattha. 

1739. Ông là thân quyến của chúng tôi ở những kiếp sống trước. Ông đây bỏn xẻn, giận dữ, có bản chất ác độc. Vì lợi ích cho chính ông mà chúng tôi đã đi đến nơi này. Mong sao cho kẻ có bản chất ác độc chớ đọa vào địa ngục.”

17. Dù trong đi trước có thân tình,
Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
Ngăn ngươi khi địa ngục lai sinh.

1740. Addhā hi maṃ vo hitakāmā yaṃ maṃ samanusāsatha, sohaṃ tathā karissāmi sabbaṃ vuttaṃ hitesihi. 

1740. “Các ngài quả thật là những người mong muốn điều lợi ích cho tôi, nên các ngài mới chỉ dạy cho tôi. Tôi đây sẽ thực hành đúng theo mọi điều đã được nói ra bởi các bậc hữu ân.

18. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
Như ta hiu được ý sâu xa.

1741. Esāhamajjeva upāramāmi nacāpahaṃ kiñci kareyya pāpaṃ, nacāpi me kiñcimadeyyamatthi nacāpadatvā udakampahaṃ pibe. 

1741. Ngay từ hôm nay, tôi đây ngưng hẳn. Tôi cũng không làm bất cứ điều gì ác độc, cũng không có bất cứ cái gì mà tôi không thể bố thí, và tôi cũng không thể uống nước sau khi tôi chưa bố thí.

19. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
Bố thí gia tài, cho tất cả,
Dù là chén nước cũng chia phần.

1742. Evañca me dadato sabbakālaṃ bhogā ime vāsava khīyissanti, tato ahaṃ pabbajissāmi sakka hitvāna kāmāni yathodhikānī ”ti.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada