1697. Bhaddo vatāyaṃ māṇavako sabbalokavidū muni, yo taṇhaṃ dukkhajananiṃ parijānāti paṇḍito ”ti.

1697. “Chàng thanh niên thật sự hiền thiện, là bậc hiền sĩ hiểu biết tất cả thế gian, là bậc sáng suốt biết toàn diện tham ái, nguồn sanh ra khổ đau.”

12. Quả thiếu sinh này thiện trí nhân,
Am tường mọi kiến thức trần gian,
Dục tham kia chính là sinh mẫu
Của khổ đau, chàng mới vạch trần.

1698. Dasa khalu imāni ṭhānāni yāni pubbe akāritvā, sa pacchā manutappati iccāha rājā janasandho.

1698. “‘Quả thật, có mười sự việc này, mà người nào trước đây đã không làm thì sau này người ấy bị hối tiếc,’ đức vua Janasandha đã nói như thế.

1. Chúa tể Ja-na nói thế này,
Có mưi điu đúng tht như vầy,
Nếu người quên việc thi hành chúng,
Thì kẻ đó liền chịu khổ ngay!

1699. Aladdhā cittaṃ tapati pubbe asamudānitaṃ, na pubbe dhanamesissaṃ iti pacchānutappati. 

1699. Tâm nóng nảy sau khi không đạt được vật đã không được tích lũy trước đây (nghĩ rằng): ‘Trước đây ta đã không tầm cầu tài sản,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

2. Không tạo, chẳng tích trữ đúng thời,
Lòng kia giày xéo khổ đau hoài,
Về sau hối tiếc vì suy nghĩ:
"Không kiếm giàu sang thuở trước rồi!"

1700. Sakyarūpaṃ pure santaṃ mayā sippaṃ na sikkhitaṃ, kicchā vutti asippassa iti pacchānutappati.

1700. ‘Trong khi có vẻ có khả năng (để học tập) trước đây, nghề nghiệp đã không được ta học tập, sự sinh sống của người không có nghề nghiệp là khó khăn,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

3. Với người không học, sống gian lao!
Suy nghĩ, ăn năn, nó khổ sầu:
Kiến thức mà nay cần sử dụng,
Nó không thèm học trưc đi nào!

1701. Kūṭavedī pure āsiṃ pisuno piṭṭhimaṃsiko, caṇḍo ca pharuso cāsiṃ iti pacchānutappati.

1701. ‘Trước đây, ta đã là người biết giả dối, đâm thọc, nói lén sau lưng. Và ta đã là người tàn nhẫn và thô lỗ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

4. Hai lưi ngày xưa, chẳng thật thà,
Vọng ngôn, ý ngữ chẳng nhân từ:
Xưa ta độc ác và cay nghiệt,
Nay thấy nhân duyên khổ đó mà.

1702. Pāṇātipātī pure āsiṃ luddo cāsiṃ anāriyo, bhūtānaṃ nāvadāyissaṃ iti pacchānutappati.

1702. ‘Trước đây, ta đã có sự giết hại sanh mạng và đã là người hung dữ, không thánh thiện. Ta đã không thương xót các sinh linh,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

5. Xưa ta sát hại thật hung tàn,
Chẳng một ngưi nào được phát ban,
Vì việc đáng khinh này, (tự nhủ),
Nay ta phải chịu lắm buồn than.

1703. Bahūsu vata santīsu anapādāsu itthisu, paradāraṃ asevissaṃ iti pacchānutappati.

1703. ‘Thật vậy, trong khi đang có nhiều người phụ nữ không cưới hỏi, tôi đã quyến rũ vợ của người khác,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

6. Nó nghĩ, xưa ta lắm thiếp thê,
Ta đành mắc nợ đám người kia,
Vì ta bỏ chúng theo nàng khác,
Việc ấy, nay ta hối tiếc ghê!

1704. Bahumhi vata santamhi annapāne upaṭṭhite, na pubbe adadiṃ dānaṃ iti pacchānutappati. 

1704. ‘Thật vậy, trước đây ta đã không ban phát vật thí trong khi có nhiều cơm nước được sẵn sàng,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

7. Xưa đã chứa đầy thức uống ăn,
Nay buồn, nó hối tiếc vô ngần,
Nghĩ rằng nó chẳng bao giờ cả
Thuở trưc đem ban bố một lần.

1705. Mātaraṃ pitaraṃ vāpi jiṇṇake gatayobbane, pahū santo na posissaṃ iti pacchānutappati. 

1705. 'Trong khi có khả năng, ta đã không nuôi dưỡng mẹ hoặc luôn cả cha đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

8. Nó khổ vì khi có thể làm,
Nó không lo phụng dưng chăm nom
Mẹ cha nay đã thành già yếu,
Tuổi trẻ ngày nay đã lụi tàn.

1706. Ācariyamanusatthāraṃ sabbakāmarasāharaṃ, pitaraṃ atimaññissaṃ iti pacchānutappati.

1706. ‘Ta đã khi dễ người cha, người thầy và người cố vấn đang đem lại cho ta sự hưởng thụ mọi điều ước muốn,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

9. Vì đã khinh thường vị giáo sư,
Những người khuyên bảo hoặc ông cha
Cố làm nó đạt tròn tâm nguyện,
Việc ấy gây đau khổ xót xa.

1707. Samaṇe brāhmaṇe cāpi sīlavante bahussute, na pubbe payirupāsissaṃ iti pacchānutappati. 

1707. ‘Trước đây, ta đã không hộ độ các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, luôn cả những bậc có giới hạnh, các vị nghe nhiều hiểu rộng,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

10. Ðối với Sa-môn quá hững hờ,
Nhiều nhà tu khổ hạnh ngày xưa
Sống đời thánh thiện và thông thái,
Khiến nó ăn năn tự bấy giờ.

1708. Sādhu hoti tapo ciṇṇo santo ca payirupāsito, na ca pubbe tapo ciṇṇo iti pacchānutappati. 

1708. ‘Lành thay hạnh khắc khổ đã được hành trì, và bậc an tịnh đã được hộ độ! Và trước đây hạnh khắc khổ đã không được ta hành trì,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

11. Khổ hạnh thực thi thật tốt lành,
Thiện nhân thường vẫn được tôn vinh,
Trước kia nó chẳng làm điu đó,
Nay phải buồn khi kể chuyện mình.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada