1685. Anāgataṃ paṭikayirātha kiccaṃ mā maṃ kiccaṃ kiccakāle vyadhesi, taṃ tādisaṃ paṭigata kiccakāriṃ na taṃ kiccaṃ kiccakāle vyadhetī ”ti.
1685. Nên làm trước công việc cần làm cho thời vị lai (nghĩ rằng): ‘Mong rằng công việc không làm cho tôi rối loạn vào thời điểm của công việc.’ Vị ấy là người như thế ấy, có sự thực hiện công việc cần phải làm trước thời hạn. Công việc không làm cho vị ấy rối loạn vào thời điểm của công việc.”
12. Hãy làm xong việc trước khi cần,
Ðừng để túng cùng phải khổ thân,
Ai đúng thời làm điều thiết yếu,
Chẳng hề lâm cảnh ngộ đau buồn.
1686. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati, addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchati.
1686. “Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên (người ấy) có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều con người ước muốn.
1. Người nào mong muốn việc trong lòng,
Khi ước nguyện kia được vẹn toàn,
Chắc chắn tâm tràn đầy hỷ lạc,
Vì nay đã đạt được cầu mong.
1687. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati, tato naṃ aparaṃ kāme ghamme taṇhaṃva vindati.
1687. Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, từ đó người ấy có các dục nhiều thêm, tựa như người có cơn khát vào mùa nóng nực.
2. Người nào ước vọng việc trong lòng,
Khi ước vọng kia được vẹn tròn,
Ước vọng tràn vào tâm trí mãi,
Như đang cơn khát gặp oi nồng.
1688. Gavaṃva siṅgino siṅgaṃ vaḍḍhamānassa vaḍḍhati, evaṃ mandassa posassa bālassa avijānato, bhiyyo taṇhā pipāsā ca vaḍḍhamānassa vaḍḍhati.
1688. Tựa như loài bò, khi con bò có sừng phát triển (cơ thể) thì cái sừng của nó cũng phát triển; tương tự như vậy, đối với kẻ đần độn, ngu dốt, không nhận thức, tham ái và sự khao khát phát triển nhiều thêm khi kẻ ấy tăng trưởng (về tuổi tác).
3. Trong loại bò trâu có mọc sừng,
Sừng kia càng lớn, cứ to dần,
Cũng như tâm địa người vô trí
Chẳng biết chút gì, chẳng biệt phân,
Trong lúc người kia càng lớn tuổi,
Thì niềm khát vọng cứ gia tăng.
1689. Pathavyā sāliyavakaṃ gavāssaṃ dāsaporisaṃ, datvāpi nālamekassa iti vidvā samañcare.
1689. Thậm chí sau khi đã ban cho ruộng lúa sāli, ruộng lúa mạch, bò, ngựa, nô lệ, và con người ở trái đất cũng không đủ cho một người, sau khi biết như thế, nên hành xử công bằng.
4. Ðem hết lúa ngô ở cõi đời,
Bò trâu, nô lệ, ngựa, cho người,
Vẫn chưa đầy đủ, này nên biết,
Và giữ đường công chính mãi thôi.
1690. Rājā pasayha paṭhaviṃ vijetvā sasāgarantaṃ mahimāvasanto, oraṃ samuddassa atittarūpo pāraṃ samuddassapi patthayetha.
1690. Vị vua sau khi chiến thắng trái đất bằng vũ lực, trong khi cư ngụ ở phần đất liền có đại dương bao quanh, có vẻ không thỏa mãn bờ bên này của biển cả, luôn bờ bên kia của biển cả cũng mong mỏi.
5. Một vua chinh phục cả phàm trần,
Trần thế trải mình tận đại dương,
Ở phía bên này chưa thỏa mãn,
Vật ngoài khơi vẫn thấy thèm thuồng.
1691. Yāva anussaraṃ kāme manasā titti nājjhagā, tato nivattā paṭikkamma disvā, te ve tittā ye paññāya tittā.
1691. Chừng nào còn tưởng nhớ các dục ở trong tâm, người ấy còn chưa đạt đến sự thỏa mãn. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi, từ đó quay trở lại, dừng lại; những người nào đã được thỏa mãn về trí tuệ, những người ấy quả thật đã được thỏa mãn.
6. Dục tham ấp ủ ở trong tim,
Tri túc chẳng hề phát khởi lên,
Người tránh dục tham tìm đúng thuốc,
Người nào tri túc, trí như nguyền.
1692. Paññāya tittinaṃ seṭṭhaṃ na so kāmehi tappati, paññāya tittaṃ purisaṃ taṇhā na kurute vasaṃ.
1692. Sự thỏa mãn về trí tuệ là cao quý, người ấy không bị đốt nóng bởi các dục. Với người đã được thỏa mãn về trí tuệ, tham ái không tạo được quyền lực.
7. Tối ưu là trí tuệ đầy tràn,
Tham dục không hề đốt cháy tan,
Chẳng có bao giờ người trí tuệ
Lại làm nô lệ của lòng tham.
1693. Apacinetheva kāmāni appicchassa alolupo, samuddamatto puriso na so kāmehi tappati.
1693. Thật vậy, nên giảm thiểu các dục, nên là người có ham muốn ít, không tham lam. Người (có trí tuệ lớn lao) ước chừng như biển cả, người ấy không bị đốt nóng bởi các dục.
8. Thiểu dục, phá tan mọi dục tham,
Chẳng ham chiếm đoạt cả trăm phần,
Người kia cũng giống như lòng biển,
Chẳng bị đốt thiêu bởi dục tầm,
Như thợ giày luôn bào guốc, dép,
Hợp làn da bọc ở bàn chân.
1694. Rathakārova cammassa parikantaṃ upāhanaṃ, yaṃ yaṃ cajati kāmānaṃ taṃ taṃ sampajjate sukhaṃ, sabbañce sukhamiccheyya sabbe kāme pariccaje.
1694. Tựa như người thợ thuộc da đang cắt miếng da tạo thành chiếc giày, mỗi khi dứt bỏ được chút nào của các dục, thì đạt đến hạnh phúc được chút ấy. Nếu mong muốn hạnh phúc trọn vẹn, thì nên lìa bỏ tất cả các dục.”
9. Cứ mỗi dục tham đuợc bỏ đi,
Một niềm hạnh phúc đến liền khi,
Người nào muốn hưởng tròn an lạc,
Phải bỏ mọi tham dục tức thì.
1695. Aṭṭha te bhāsitā gāthā sabbā honti sahassiyo, patigaṇha mahābrahme sādhetaṃ tava bhāsitaṃ.
1695. “Tám kệ ngôn đã được ngài nói, tất cả đều xứng đáng bạc ngàn. Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ngài hãy thọ nhận. Lành thay lời đã nói ấy của ngài.”
10. Tám khúc chàng ngâm đáng tám ngàn,
Ngàn vàng mỗi khúc, Ðại La-môn,
Xin chàng nhận số vàng, vì lẽ
Lời nói chàng nay thật dịu dàng.
1696. Na me attho sahassehi satehi nahutehi vā, pacchimaṃ bhāsato gāthaṃ kāme me na rato mano.
1696. “Không có lợi ích gì cho ta với một ngàn, với một trăm, hay với mười ngàn. Trong khi ta nói kệ ngôn cuối cùng, tâm ý của ta không còn thích thú ở dục.”
11. Dù có ngàn, muôn, triệu, triệu lần
Ngàn vàng, ta cũng chẳng mơ màng,
Như lời kệ cuối vừa ngâm ấy,
Tham dục tâm ta đã lụi tàn.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada