1673. Cetabbarūpaṃ cetesi bhaddasālavanaspati, hitakāmosi ñātīnaṃ abhayaṃ samma dadāmi te ”ti.

1673. “Này thần cây may mắn, này vị chúa tể của khu rừng, ngài suy nghĩ có vẻ thấu đáo. Ngài có sự mong muốn điều lợi ích cho các thân quyến, thưa ngài, trẫm ban cho ngài sự không sợ hãi.”

12. Cát tường cổ thụ, Chúa rừng xanh!
Tư tưởng ngài cao cả thật tình,
Ngài muốn giúp thân bằng quyến thuộc,
Vậy trẫm cho ngài thoát hãi kinh!

1674. Kasanti vapanti te janā manujā kammaphalūpajīvino, nayimassa dīpakassa bhāgino jambudīpā idameva no varaṃ. 

1674. “Các cư dân ấy cày và gieo hạt. Những người sống nhờ vào kết quả của công việc không phải là những người có phần chia của hòn đảo nhỏ này. Chính nơi này của chúng tôi còn quý báu hơn Jambudīpa.”

1. Người thì gieo hạt, kẻ đi cày,
Sống với mồ hôi ở cuối mày,
Chúng chẳng hưng vùng ta được sống,
Hơn xa Ấn Ðộ chính nơi này!

1675. Tipañcarattūpagamamhi cando vego mahā hohiti sāgarassa, uplāpayaṃ dīpamimaṃ uḷāraṃ mā vo vadhi gacchatha leṇamaññaṃ.

1675. “Mặt trăng vào ba hay năm đêm sắp đến, sẽ có một đợt triều lớn của biển cả tràn ngập hòn đảo cao quý này. Cái chết chớ có xảy ra cho quý vị. Quý vị hãy đi đến chỗ nương náu khác.”

2. Trong hai tuần nữa thấy tròn trăng,
Từ biển này dâng ngọn sóng thần
Tràn ngập đảo to này: Hãy vội
Di cư để khỏi hại người dân.

1676. Na jātayaṃ sāgaravārivego uppāṭaye dīpamimaṃ uḷāraṃ, taṃ me nimittehi bahūhi diṭṭhaṃ mā bhetha kiṃ socatha modathavho.

1676. “Đợt triều của nước biển được sanh lên này không có thể tràn ngập hòn đảo cao quý này. Điều này đã được ta thấy nhờ vào nhiều điềm báo. Quý vị chớ sợ hãi. Việc gì quý vị sầu muộn? Quý vị hãy vui mừng.

3. Theo nhiều dấu hiệu đã nêu rằng
Dân chúng nghe tin đợt sóng thần
Sẽ chẳng hề tràn lên đảo lớn,
Vui lên đừng sợ, chớ đau buồn.

1677. Pahūtabhakkhaṃ bahu-annapānaṃ pattattha āvāsamimaṃ uḷāraṃ, na vo bhayaṃ paṭipassāmi kiñci āputtaputtehi pamodathavho. 

1677. Có nhiều thức ăn, có nhiều cơm nước, có sự thành tựu về của cải. Chỗ trú ngụ này là cao quý. Ta không nhìn thấy bất cứ sự sợ hãi nào cho quý vị. Quý vị hãy vui đùa cùng các con cháu.”

4. Các ông gặp chốn rộng nơi đây,
Các thức uống ăn li đủ thay,
Ta thấy chẳng gì nguy, cứ hưởng
Ðến đời sau, lạc thú như vầy.

1678. Yo tvevayaṃ dakkhiṇassaṃ disāyaṃ khemanti pakkosati tassa saccaṃ, na uttaro vedi bhayābhayassa mā bhetha kiṃ socatha modathavho. 

1678. “Chính vị thần ở hướng nam tuyên bố về sự thật của điều ấy là ‘an toàn.’ Vị thần hướng bắc đã không biết về sự sợ hãi và không sợ hãi. Quý vị chớ sợ hãi. Việc gì quý vị sầu muộn? Quý vị hãy vui mừng.”

5. Từ hướng Nam, Thần ấy hét vang,
Chúng ta nghe: "Vạn sự bình an",
Từ Thần này nói là thật,
Sợ hãi, hay không phải hoảng hồn,
Vị Bắc thần kia nào có biết,
Vui lên đừng sợ, chớ lo buồn!

1679. Yathā ime vippavadanti yakkhā eko bhayaṃ saṃsati khemameko, tadiṅgha mayhaṃ vacanaṃ suṇātha khippaṃ lahuṃ mā vinassimha sabbe. 

1679. “Giống như các Dạ-xoa này tranh cãi nhau, một bên bảo là sợ hãi, một bên bảo là an toàn. Vậy thì quý vị hãy lắng nghe lời nói của tôi. Mong rằng tất cả quý vị chớ bị tiêu hoại một cách mau chóng và chớp nhoáng.

6. Khi nói ngược nhau, nhị hải Thần,
Một kêu sợ hãi, một an toàn,
Nghe lời ta dặn, e giây lát
Tất cả ngưi đây chết cả đoàn.

1680. Sabbe samāgamma karoma nāvaṃ doṇiṃ daḷhaṃ sabbayantūpapannaṃ, sace ayaṃ dakkhiṇo saccamāha moghaṃ paṭikkosati uttaro ayaṃ. 

1680. Tất cả chúng ta hãy tụ hội lại và làm chiếc thuyền, chiếc ghe chắc chắn, có đầy đủ tất cả bộ phận di chuyển (cây chèo, bánh lái, v.v...). Nếu vị thần ở hướng nam đã nói sự thật, thì vị thần ở hướng bắc tuyên bố điên rồ.

7. Ta cùng xây một đi thương thuyền,
Thuyền lớn, hành trang cất hết lên,
Nếu vị Nam thần này nói thật,
Thần kia nói nhảm nhí quàng xiêng;

1681. Sace vano hohiti āpadatthā imañca dīpaṃ na pariccajema, sace ca kho uttaro saccamāha moghaṃ paṭikkosati dakkhiṇo ayaṃ, tameva nāvaṃ abhiruyha sabbe evaṃ mayaṃ sotthi tāremu pāraṃ. 

1681. Con thuyền sẽ thật sự có lợi ích cho chúng ta sau này khi có tai họa sanh khởi, và chúng ta sẽ không rời bỏ hòn đảo này. Và nếu vị thần ở hướng bắc đã nói sự thật, thì vị thần ở hướng nam tuyên bố điên rồ. Tất cả hãy leo lên chính chiếc thuyền ấy, như vậy chúng ta có thể vượt đến bờ kia một cách an toàn.

8. Khi cần, thuyền sẽ ích cho ta,
Ta chẳng rời ngay đảo ấy mà,
Song nếu Bắc thần kia nói đúng,
Thần Nam chỉ nói chuyện điên r,
Ta cùng lúc ấy lên thuyền cả,
Nơi có bình an, sẽ vội qua,

1682. Na ve sugaṇhaṃ paṭhamena seṭṭhaṃ kaniṭṭhamāpāthagataṃ gahetvā, yo cīdha majjhaṃ paviceyya gaṇhati save naro seṭṭhamupeti ṭhānaṃ. 

1682. Thật vật, trong khi không nắm lấy theo người thứ nhất là điều đúng đắn, sau khi nắm lấy việc đi theo quan điểm của người sau, và ở đây, người nào suy xét điều ở giữa rồi nắm lấy, chính người nam ấy đạt đến vị thế tốt nhất.”

9. Ðừng xem ưu, liệt, chuyện vừa nghe,
Ai để lọt tai cả mọi phe,
Xét kỹ, rồi theo phần chính giữa,
Bến bình an nhất, kéo neo về.

1683. Yathāpi te sāgaravārimajjhe sakammunā sotthiṃ vahiṃsu vāṇijā, anāgatatthaṃ paṭivijjhiyāna appampi nāccetisa bhūripañño.

1683. “Cũng giống như những người kia ở giữa dòng nước của biển cả, những người thương buôn đã đi đến sự an toàn nhờ vào hành động của bản thân. Sau khi thấu triệt lợi ích ở tương lai, người nào không bỏ qua dầu là việc có tính chất nhỏ nhen, người ấy là vị có trí tuệ uyên bác.

10. Do nghiệp làm, như gia đi dương,
Nên người trí hiểu điều sâu kín,
Chẳng phạm ngày sau lỗi cỏn con.

1684. Bālā ca mohena rasānugiddhā anāgataṃ appaṭivijjhiyatthaṃ, paccuppanne sīdanti atthajāte samuddamajjhe yathā te manussā. 

1684. Và những kẻ ngu tham đắm theo hương vị bởi vì si mê, sau khi không thấu triệt lợi ích trong tương lai, chúng ngồi yên trong hiện tại khi có sanh lên công việc, giống như là những người đàn ông ấy (bị mất mạng) ở giữa biển cả.

11. Kẻ ngu, khờ dại nuốt tham lam,
Chẳng hiểu tương lai hiểm họa tràn,
Chìm ngập trước nhu cầu hiện tại,
Như người tận số giữa trùng dương.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada