1661. Nāccantavaṇṇā na bahūnaṃ kantā na dakkhiṇā pamadā sevitabbā, na parassa bhariyā na dhanassa hetu etitthiyo pañca na sevitabbā ”ti.

1661. Không nên thân cận người nữ có sắc đẹp quá mức, không với người nữ được nhiều người yêu thương, cũng không với người đàn bà khéo léo, không với người là vợ của người khác, không với người vì nguyên nhân tài sản; năm hạng nữ nhân này không nên thân cận.”

35. Má hồng tài trì thật thông minh,
Hay có hình dung tuyệt đẹp xinh,
Và đám mày râu thường ái mộ,
Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
Một phú ông loan phượng hợp thành,
Năm hạng nữ nhi này tất cả,
Nam nhân không được kết ân tình!

1662. Kā tvaṃ suddhehi vatthehi aghe vehāsayaṃ ṭhitā, kena tyāssūni vattanti kuto taṃ bhayamāgataṃ.

1662. “Ngài là ai mà đứng ở không trung, trên bầu trời, với y phục tinh khiết? Vì sao các giọt nước mắt của ngài tuôn rơi? Nỗi sợ hãi ấy từ đâu đến?”

1. Ngài là ai, đứng giữa không gian,
Mình khoác xiêm y tựa thánh thần,
Sao nỗi kinh hoàng kia phát khởi,
Mắt ngài sao đẫm lệ tuôn tràn?

1663. Taveva deva vijite bhaddasāloti maṃ vidū, saṭṭhiṃ vassasahassāni tiṭṭhato pūjitassa me.

1663. “Tâu bệ hạ, ở trong lãnh thổ của bệ hạ, mọi người đã biết rõ tôi là ‘Bhaddasāla’ (Cây May Mắn). Trong khi tồn tại sáu mươi ngàn năm, tôi đã được họ tôn vinh.

2. Ở trong quốc đ, hỡi quân vương,
Người biết danh cây: Ðại Cát Tường,
Ðã sáu mươi ngàn năm vn đứng,
Toàn dân đều cúng bái ta luôn.

1664. Kārayantā nagarāni agāre ca disampati, vividhe cāpi pāsāde na mante accamaññisuṃ, yatheva maṃ te pūjesuṃ tatheva tvampi pūjaya.

664. Tâu vị chúa tể các phương, trong khi cho xây dựng các thành phố, các ngôi nhà, và luôn cả các tòa lâu đài đa dạng, họ đã không xúc phạm đến tôi. Họ đã tôn vinh tôi như thế nào, mong rằng bệ hạ cũng hãy tôn vinh tôi y như thế.”

3. Dù chúng dựng xây lắm thị thành,
Lâu đài vương xá, các cung đình,
Tuy nhiên, chúng chẳng hề phiền nhiễu,
Cũng chẳng gây tai hại thần linh,
Vì chúng tôn sùng ta đến thế,
Xin ngài, Chúa thượng cũng tôn vinh!

1665. Tava ahaṃ na passāmi thullaṃ kāyena te dumaṃ, ārohapariṇāhena abhirūposi jātiyā.

1665. “Trẫm chưa nhìn thấy cây nào như ngài; thân cây của ngài đồ sộ về kích thước, về chiều cao, và về chu vi. Ngài là tuyệt vời về chủng loại.4. Song một thân cây vĩ đại này,
Trẫm chưa hề thấy tự xưa nay,
Chu vi đẹp cả chiều cao nữa,
Hùng mạnh, một cây vững chắc thay.

1666. Pāsādaṃ kārayissāmi ekatthambhaṃ manoramaṃ, tattha taṃ upanessāmi ciraṃ te yakkha jīvitaṃ.

1666. Trẫm sẽ cho làm tòa lâu đài có một cột trụ, làm thích ý. Trẫm sẽ đưa ngài về nơi ấy. Này vị Dạ-xoa, cuộc sống của ngài sẽ được lâu dài.”

5. Trẫm muốn xây nên mỹ lệ cung,
Chỉ cần độc nhất trụ làm chân,
Trẫm muốn đặt ngài vào chỗ đó,
Ðời ngài không ngắn ngủi đâu Thần.

1667. Evaṃ cittaṃ udapādi sarīrena vinābhāvo, puthuso maṃ vikantetvā khaṇḍaso avakantatha.  

1667. “Nếu tâm của bệ hạ đã sanh khởi như vậy, là việc tách rời tôi với thân cây, vậy hãy cắt lìa tôi thành nhiều phần, hãy cắt đứt thành từng khúc.

6. Vì ngài mong muốn đẵn cây thần
Xin hãy chặt ta nhỏ mỗi phần,
Và xẻ thân này từng mảnh một,
Hoặc đừng gì cả, tấu Anh quân.

1668. Agge ca chetvā majjhe ca pacchā mūlañca chindatha, evaṃ me chijjamānassa na dukkhaṃ maraṇaṃ siyā. 

1668. Sau khi cắt ở phần ngọn, ở phần giữa, và sau cùng hãy cắt ở phần gốc. Trong khi tôi bị cắt đứt như vậy, thì cái chết có thể là không đau đớn.”

7. Hãy chặt trước tiên lấy đnh đầu,
Kế là phần giữa, gốc về sau,
Nếu ngài đn đưc ta như thế,
Cái chết chẳng còn tạo khổ sầu.

1669. Hatthapādaṃ yathā chinde kaṇṇanāsañca jīvite, tato pacchā siro chinde taṃ dukkhaṃ maraṇaṃ siyā.

1669. “Giống như chặt đứt bàn tay và bàn chân, rồi lỗ tai và lỗ mũi ở người còn sống, kế đến chặt đứt cái đầu sau cùng; cái chết ấy có thể là đau đớn.

8. Trước hết chân tay, kế mũi tai,
Khi người lâm nạn chửa tàn hơi,
Cuối cùng thủ cấp này rơi xuống,
Cái chết này đau đớn rụng rời.

1670. Sukhannu khaṇḍaso chinnaṃ bhaddasālavanaspati, kiṃ hetu kiṃ upādāya khaṇḍaso chinnam icchasi.

1670. Này thần cây may mắn, này vị chúa tể của khu rừng, phải chăng việc được cắt thành khúc là an toàn? Điều gì là nguyên nhân, liên quan đến điều gì mà ngài lại muốn được cắt thành khúc?”

9. Cát Tường cổ thụ! Chúa sơn lâm!
Lạc thú gì ngài cảm thấy chăng?
Sao, lý do gì ngài ước muốn
Thân cây được xẻ nhỏ từng phần?

1671. Yañca hetuṃ upādāya hetu dhammūpasaṃhitaṃ, khaṇḍaso chinnam3icchāmi mahārāja suṇohi me. 

1671. “Việc tôi muốn được cắt thành khúc là có nguyên nhân, liên quan đến nguyên nhân được gắn liền với thực tế. Tâu đại vương, xin hãy lắng nghe tôi.

10. Vì lý do nào cao cả thay,
Cớ sao ta muốn xẻ thân này,
Phân ra từng mảnh, tâu Hoàng thượng,
Xin lắng nghe lời ta nói đây.

1672. Ñātī me sukhasaṃvaddhā mama passe nivātajā, tepihaṃ upahiṃseyyaṃ paresaṃ asukhocitaṃ. 

1672. Các thân quyến của tôi được phát triển an toàn, được sanh ra yên ổn ở bên cạnh tôi. Tôi lại có thể gây tổn thương đến họ, là việc đem lại sự không an toàn cho những người khác (nếu bị đốn ngã nguyên cây).”

11. Quanh ta phồn thịnh đám thân bằng,
Sinh trưởng nhờ nơi trú vẹn toàn,
Nếu ta ngã mạnh, đè tan chúng,
Nỗi đn đau kia sẽ ngập tràn.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada