1650. Khuddānaṃ lahucittānaṃ akataññūna dūbhinaṃ, nādevasatto puriso ṭhīnaṃ saddhātumarahati.

1650. Đàn bà là những người nhỏ nhen, có tâm khinh suất, vô ơn, bội bạc, Người đàn ông, nếu không bị phi nhân xâm nhập, thì không thể nào tin tưởng những người đàn bà.

24. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ nhân,
Chúng còn bội nghĩa với vong ân
Nam nhân, ví thử không si ám,
Chẳng hạ cố tin chúng nói năng.

1651. Na tā pajānanti kataṃ na kiccaṃ na mātaraṃ pitaraṃ bhātaraṃ vā, anariyā samatikkantadhammā sasseva cittassa vasaṃ vajanti. 

1651. Các nàng không biết đến ân nghĩa, không biết đến việc cần phải làm, không biết đến mẹ, cha, hay anh em trai. Các nàng không thánh thiện, vượt qua nguyên tắc, và đi theo sự sai khiến của chính tâm mình.

25. Chúng ít quan tâm bổn phận mình,
Hoặc lời kêu gọi của ân tình,
Vô tâm trước tấm lòng cha mẹ,
Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
Chúng đóng vai người không hổ thẹn
Khi vi phạm luật lệ công bình,
Mọi hành vi chúng đều tuân phục
Ước vọng trong tâm của chính mình.

1652. Cirānuvuttampi piyaṃ manāpaṃ anukampaṃ pāṇasamampi santaṃ, āvāsu kiccesu ca naṃ jahanti tasmāhamitthīnaṃ na vissasāmi. 

1652. Mặc dầu chàng đã sống chung thời gian dài, chàng đáng yêu, đáng mến, có lòng thương xót, thậm chí chàng còn được xem như là sanh mạng, các nàng cũng từ bỏ chàng trong những lúc rủi ro và trong những lúc hữu sự; vì thế, trẫm không tin cậy những người đàn bà.

26. Dù ở với chàng bao tháng năm,
Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
Nồng nàn trong dạ và thân thiết
Như chính đời chàng quả thật chân,
Trong lúc gian lao và khốn khổ,
Chúng đành lòng bỏ đức phu quân.
Về phần ta chẳng bao giờ nữa
Còn đặt lòng tin bọn nữ nhân.

1653. Thīnañhi cittaṃ yathā vānarassa kannappakannaṃ yathā rukkhachāyā, calācalaṃ hadayaṃ itthiyānaṃ cakkassa nemi viya parivattati. 

1653. Bởi vì tâm của những người đàn bà giống như tâm của loài khỉ. giống như bóng râm của cây luôn nhấp nhổm. Trái tim của những người phụ nữ luôn chao đảo, giống như cái vành của bánh xe quay vòng vòng.

27. Tâm nữ nhân thường thấy đổi thay
Như là loài vượn khỉ leo cây,
Hoặc như tàn lá cây soi bóng
Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
Chủ đích ở trong lòng nữ giới
Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
Như th bánh xe lăn vút mãi
Không hề có lúc nghỉ ngừng quay.

1654. Yadā tā passanti samekkhamānā ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ, saṇhāhi vācāhi nayanti menaṃ kambojakā jalajeneva assaṃ. 

1654. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, nhìn thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng dụ dỗ người ấy bằng những lời nói mềm mỏng, tựa như những người dân xứ Kamboja dụ dỗ con ngựa rừng bằng rong rêu (có bôi mật ong).

28. Khi đã nghĩ suy thật kỹ càng,
Chúng nhìn quanh quẩn kiếm tìm đàng
Ðể đi bắt một người giàu có,
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Những bọn dại khờ như vy đó,
Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
Dùng cỏ thơm câu ngựa dã man.

1655. Yadā na passanti samekkhamānā ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ, samantato naṃ parivajjayanti tiṇṇo nadīpāragatova kullaṃ 

1655. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, không nhìn thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng lánh xa người ấy ở mọi nơi, tựa như người đã vượt qua, đã đi đến bờ bên kia của dòng sông, xa lánh chiếc bè.

29. Song nếu nhìn quanh thật kỹ càng
Mà không tìm thấy đưc con đường
Ðể mong chiếm đoạt phần tài sản
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Chúng đuổi gã ngay như một kẻ
Ðã lên bờ nọ lúc sang ngang,
Tức thì bỏ mặc thuyền trôi dạt,
Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng.

1656. Silesūpamā sikhiriva sabbabhakkhā tikkhamāyā nadīriva sīghasotā, sevanti hetā piyamappiyañca nāgaṃ yathā orakulaṃ parañca.

1656. Phụ nữ giống như chất kết dính, tựa như ngọn lửa thiêu đốt tất cả. Các nàng có sự lừa phỉnh mau lẹ, tựa như con sông có dòng nước chảy xiết. Bởi vì các nàng ấy hầu hạ người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống như con thuyền ghé vào bến đò ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.

30. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo hung
Chúng ôm ghì gã chặt trong lòng,
Hoặc là đẩy gã như dòng nước
Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ xa lẫn bến gần!

1657. Na tā ekassa na dvinnaṃ āpaṇova pasārito, yo tā mayhanti maññeyya vātaṃ jalena bādhaye.

1657. Các nàng ấy không thuộc về một người, không thuộc về hai người, các nàng ấy tựa như cửa tiệm đã được trưng bày. Kẻ nào nghĩ rằng: ‘Các nàng ấy là thuộc về ta,’ kẻ ấy tưởng như có thể tóm gọn làn gió bằng cái lưới.

31. Chúng chẳng thuộc về một hoặc hai,
Chúng như hàng quán mở ra mời;
Ngưi dùng lưới bắt nhanh làn gió,
Như nữ nhân cầm giữ bọn trai.

1658. Yathā nadī ca pantho ca pānāgāraṃ sabhā papā, evaṃ lokitthiyo nāma velā tāsaṃ na vijjati.

1658. Giống như dòng sông, con đường, quán nước, phòng hội, lều nghỉ chân, những người đàn bà ở thế gian được gọi là như vậy, giới hạn của các nàng ấy không được biết đến.

32. Như quán nước, sông suối, mặt đường,
Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
Tội chúng làm sao có thể lường!

1659. Ghatāsanasamāhetā kaṇhasappasirūpamā, gāvo bahi tiṇasseva omasanti varaṃ varaṃ.

1659. Thật vậy, các nàng ấy như là ngọn lửa tế thần, tựa như đầu con rắn độc màu đen, ví như bầy bò chỉ gặm những cọng ngon nhất của bãi cỏ ở bên ngoài.

33. Ðộc hại như đầu rắn hổ đen,
Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng muốn tình lang lắm của tiền!

1660. Ghatāsanaṃ kuñjariṃ kaṇhasappaṃ muddhābhisittaṃ pamadā ca sabbā, ete naro niccayatto bhajetha tesaṃ have dubbidu sabbabhāvo.

1660. Ngọn lửa tế thần, con voi, rắn độc màu đen, người được làm lễ phong vương, và tất cả các nữ nhân, năm hạng này, người nam có tánh thận trọng có thể giao thiệp. Thật vậy, mọi ý định của những hạng ấy khó mà biết được.

34. Tránh loài voi, rắn hổ đen mun,
Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
Ngưi đưc phong vương và quán đảnh,
Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
Những ai biết sống luôn phòng hộ
Xem các thứ này tựa địch quân.
Quả thật chính là tâm địa chúng
Làm sao biết rõ, khó vô cùng!



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada