1516. Etāni kho sotthānāni loke viññuppasatthāni sukhudrayāni , tānīdha sevetha naro sapañño na hi maṅgale kiñcanam atthi saccan ”ti.

1516. Thật vậy, các sự an lành này ở thế gian được khen ngợi bởi những người hiểu biết, là các nguồn tạo ra sự an lạc. Ở đây, người có trí tuệ nên thực hành các điều ấy, bởi vì không có bất cứ cái gì gọi là Chân Lý ở điềm lành cả.”

10. Công đức như vầy giữa thế gian,
Ðược tôn sùng bởi mọi hiền nhân,
Người khôn hãy bước đi theo chúng,
Ðiềm triệu chẳng mang tính thật chân.

1517. Uṭṭhehi kaṇha kiṃ sesi ko attho supine tena, yopi tuyha sako bhātā hadayaṃ cakkhuñca dakkhiṇaṃ, tassa vātā balīyanti ghato jappati kesava.

1517. “Tâu Kaṇha, xin bệ hạ hãy đứng lên. Việc gì bệ hạ lại nằm? Có lợi ích gì với ngài ở giấc chiêm bao? Các cơn gió khuấy động người em trai ruột, trái tim và con mắt phải của bệ hạ. Tâu Kesava, Ghata nói lảm nhảm.”

1. Hắc đế Kan-ha, hãy đứng lên,
Sao ngài nhắm mắt ngủ, nằm yên,
Kìa bào đệ, gió to đang cuốn
Tâm trí chàng bay mất, hãy nhìn:
Mất trí, Gha-ta mồm lảm nhảm,
Hỡi ngài Ðại đế tóc đen huyền!

1518. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā rohiṇeyyassa kesavo, taramānarūpo vuṭṭhāsi bhātusokena aṭṭito.

1518. Sau khi nghe lời nói ấy của cận thần Rohiṇeyya ấy, đức vua Kesava, bị khổ sở bởi nỗi sầu muộn về người em trai, đã vùng dậy với vẻ vội vã.

2. Chốc lát vua dài tóc Ke-sa,
Nghe Ro-hi lớn tiếng gào la,
Ðứng lên, đại đế đầy phiền muộn
Vì nỗi khổ buồn của Gha-ta

1519. Kinnu ummattarūpova kevalaṃ dvārakaṃ imaṃ, saso sasoti lapasi ko nu te sasamāhari.

1519. “Có phải em, với dáng vẻ giống như người điên, (đi lang thang) khắp cổng thành này, lải nhải rằng: ‘Con thỏ, con thỏ.’ Thế người nào đã lấy đi con thỏ của em?

3. Sao dáng điên rồ, đệ bước qua
Khắp miền non nước Dvà-ra-ka,
Và kêu: "Thỏ, thỏ! này cho biết,
Ai lấy thỏ con của đệ à?

1520. Sovaṇṇamayaṃ maṇimayaṃ lohamayaṃ atha rūpiyāmayaṃ, saṅkhasilāpavāḷamayaṃ kārayissāmi te sasaṃ.

1520. Con thỏ của em làm bằng vàng, bằng ngọc ma-ni, bằng đồng, bằng bạc, bằng vỏ sò, đá cuội, hay san hô, trẫm sẽ bảo làm con thỏ cho em.

4. Thỏ làm bằng ngọc hoặc vàng ròng,
Như đệ ước ao, bạc hoặc đồng,
Vỏ óc, san hô, hay đá cuội,
Ta làm ngay thỏ, đệ an lòng.

1521. Santi aññepi sasakā araññe vanagocarā, tepi te ānayissāmi kīdisaṃ sasamicchasi.

1521. Cũng có những con thỏ khác ở trong khu rừng, kiếm ăn ở trong rừng; trẫm sẽ cho đem chúng đến cho em. Em muốn con thỏ loại như thế nào?”

5. Còn có nhiều loài thỏ biết bao,
Vẫn thường quanh quẩn chốn rừng sâu,
Ðược mang về nữa ta đòi bắt,
Hãy nói, em thích chọn thứ nào?

1522. Nacāhametaṃ icchāmi ye sasā paṭhaviṃ sitā, candato sasamicchāmi tamme ohara kesava.

1522. “Nhưng em không muốn con thỏ ấy, những con thỏ nương náu ở trái đất. Em muốn con thỏ từ mặt trăng. Anh Kesava, anh hãy mang nó xuống cho em.”

6. Em chẳng ước ao thỏ thế gian,
Mà mơ con thỏ ở cung trăng,
Này Ke-sa, thỏ kìa, đem xuống,
Em chẳng đòi thêm một đặc ân.

1523. So nūna madhuraṃ ñāti jīvitaṃ vijahissasi, apatthiyaṃ yo patthayasi candato sasamicchasi.

1523. “Này người bà con, đúng là em đây sẽ lìa bỏ cuộc sống ngọt ngào; em mong mỏi vật không thể mong mỏi, em muốn con thỏ từ mặt trăng.”

7. Nói thật này em sẽ chết thôi,
Nếu em cầu khấn chuyện kia hoài,
Em đòi chuyện chẳng ai mong ước,
Con thỏ cung trăng ở cõi trời!

1524. Evañce kaṇha jānāsi yadaññamanusāsasi, kasmā pure mataṃ puttaṃ ajjāpimanusocasi.

1524. “Này anh Kaṇha, nếu anh biết là như vậy thì anh mới nên khuyên bảo người khác như thế; tại sao đến bây giờ anh vẫn sầu muộn về đứa con trai đã chết trước đây?

8. Nếu Kan-ha hiểu chuyện này mau,
Và giải khuyên người khóc khổ đau,
Anh vẫn cớ sao đang phiền muộn
Ðứa con trai đã chết từ lâu?

1525. Yaṃ na labbhā manussena amanussena vā puna, jāto me māmari putto kuto labbhā alabbhiyaṃ.

1525. Việc nào không thể đạt được bởi con người hoặc ngay cả phi nhân (như là): ‘Mong rằng đứa con trai đã được sanh ra của tôi đừng chết,’ do đâu mà điều không thể đạt được sẽ trở nên đạt được?

9. Con ta sinh, ước chẳng lìa trần,
Không một người hay cả thánh thần
Có thể đạt lời nguyền kia, vậy
Sao điều không có, lại cầu mong?

1526. Na mantā mūlabhesajjā osadhehi dhanena vā, sakkā ānayituṃ kaṇhā yampetamanusocasi.

1526. Này anh Kaṇha, không thể đưa người quá vãng mà anh sầu muộn trở về bằng chú thuật, bằng thuốc men từ rễ cây, bằng các thần dược, hoặc bằng tài sản.”

10. Không có bùa thiên, hoặc thuốc thần,
Chẳng loài cỏ thuốc hoặc tiền vàng
Ðủ công năng để làm cho sống
Người chết, Kan-ha vẫn khóc than.

1527. Yassa etādisā assu amaccā purisapaṇḍitā, yathā nijjhāpaye ajja ghato purisapaṇḍito.

1527. “Mong sao trẫm có được những người cộng sự, những người sáng suốt như thế này, giống như con người sáng suốt Ghata hôm nay có thể làm cho bừng tỉnh.

11. Trẫm nghe nhiều bậc trí nhân,
Nhiều người lỗi lạc khuyên toàn điều hay,
Song Gha-ta đã khéo thay,
Mở đôi mắt trẫm từ nay sáng bừng!

1528. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃ va pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.

1528. Quả thật, trong khi trẫm đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.

12. Ta đang thiêu đốt trong lòng,
Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
Em đà mang nước lạnh vào,
Và em dập tắt khát khao tủi buồn.

1529. Abbahī vata me sallaṃ yamāsi hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.

1529. Khi trẫm bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của trẫm, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của trẫm.

13. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
Em vừa an ủi khuây khoa
Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.

1530. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna māṇava.

1530. Trẫm đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Này chàng trai, sau khi lắng nghe em, trẫm không sầu muộn, không khóc lóc.”

14. Tên vừa nhổ, hết đau ngay,
Giữ tâm thanh thản, ta rày bình an,
Nghe lời chân lý, hỡi chàng,
Ta không còn phải khóc than đau buồn.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada