1506. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma disampati, nisammakārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhatī ”ti.

1506. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể không thể không cân nhắc. Đối với vị vua có hành động đã được cân nhắc, danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”

49. Vị vua thận trọng suy tư kỹ,
Xử án đầy suy xét tận tình,
Vua chúa suy tư phân xử đúng,
Đời đời danh vọng mãi quang vinh.

1507. Kiṃ su naro jappamadhiccakāle kaṃ vā vijjaṃ katamaṃ vā sutānaṃ, so macco asmiñca paramhi loke kathaṃ karo sotthānena gutto.

1507. “Con người học thuộc lòng và trì tụng cái gì vào thời điểm khấn nguyện? Kinh văn nào, hoặc phần nào trong các giáo điều? Người ấy được bảo vệ một cách an lành ở kiếp này và kiếp sau là người thực hành như thế nào?”

1. Hiển bày chân lý, giải nghi nan,
Xin dạy kinh gì của Thánh nhân
Ðược học hành theo giờ thuận lợi,
Ðời này, đời kế tạo hồng ân?

1508. Yassa devā pitaro ca sabbe siriṃsapā sabbabhūtāni cāpi, mettāya niccaṃ apacitāni honti bhūtesu ve sotthānaṃ tadāhu.

1508. “Người nào thường xuyên tôn vinh chư Thiên và tất cả cha ông, các loài rắn và tất cả các sanh linh với tâm từ ái, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các sanh linh.

2. Mỗi Phạm thiên, thần thánh hiển linh,
Rắn rồng ta thấy giữa quần sinh,
Trong lòng mãi mãi đầy từ mẫn,
Vị ấy ban ơn mọi hữu tình.

1509. Yo sabbalokassa nivātavutti itthīpumānaṃ sahadārakānaṃ, khantā duruttānaṃ apaṭikkūlavādī adhivāsanaṃ sotthānaṃ tadāhu.

1509. Người nào có lối cư xử khiêm tốn đối với tất cả thế gian, đối với những người nữ và nam, đối với các đứa trẻ, là người nhẫn nhịn, không nói lời mắng nhiếc đối với những lời phát biểu khó nghe, người ấy đã chúc tụng sự an lành tức là sự kham nhẫn.

3. Kẻ nào khiêm tốn với muôn người,
Yêu mến nữ nam, mọi gái trai,
Ðứng trước lời bình, không đáp lại,
Sẽ mang hạnh phúc đến cho đời.

1510. Yo nāvajānāti sahāyamatte sippena kulyāhi dhanena jaccā, rucipañño atthakāle mutimā sahāyesu ve sotthānaṃ tadāhu.

1510. Người nào không khi dễ các cộng sự và các bạn bè về nghề nghiệp, về gia tộc, về tài sản, về dòng dõi, là người có trí tuệ trong sáng, có sự nhận biết vào thời điểm có lợi ích, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các bạn bè.

4. Gặp hiểm nguy, người có trí nhanh
Chẳng khinh đồng nghiệp, bạn đồng hành,
Chẳng khoe dòng trí, giàu, giai cấp,
Hạnh phúc cho đời ắt khởi sinh.

1511. Mittāni ve yassa bhavanti santo saṃvissatthā avisaṃvādakassa, na mittadūbhi saṃvibhāgi dhanena mittesu ve sotthānaṃ tadāhu.

1511. Thật vậy, người nào có các thân hữu là những người tốt, đạt được sự tin cậy, người nào không có bản tánh lường gạt, không phải là kẻ hãm hại thân hữu, có sự chia sớt về tài sản, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các thân hữu.

5. Người nào kết bạn thiện, hiền nhân,
Ðược trọng vì mồm chẳng ác thâm,
Không hại bạn, chia đều của cải,
Chính niềm hạnh phúc giữa thân bằng.

1512. Yassa bhariyā tulyavayā samaggā anubbatā dhammakāmā pajātā, koliniyā sīlavatī patibbatā dāresu ve sotthānaṃ tadāhu.

1512. Người nào có cô vợ là người tương đương về tuổi tác, sống hòa thuận, tận tụy, mong muốn làm thiện pháp, có khả năng sanh sản, xuất thân gia giáo, có giới hạnh, chung thủy, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các cô vợ.

6. Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.

1513. Yassa rājā bhūtapatī yasassī jānāti soceyyaṃ parakkamañca, advejjhatāsu hadayaṃ mamanti rājusu ve sotthānaṃ tadāhu.

1513. Người nào có vị vua là chúa tể của thần dân, có danh tiếng, nhận biết sự thanh liêm và sự nỗ lực, có trạng thái không do dự (xác quyết rằng): ‘Người này là bạn của trẫm,’ người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các vị vua.

7. Vua nào đại đế giữa thần dân,
Biết sống thanh cao, đủ khả năng,
Bảo: "Ðấy bạn ta", không dối trá,
Chính niềm hạnh phúc giữa vương quân.

1514. Annañca pānañca dadāti saddho mālañca gandhañca vilepanañca, pasannacitto anumodamāno saggesu ve sotthānaṃ tadāhu.

1514. Người có niềm tin bố thí cơm ăn, nước uống, tràng hoa, hương thơm, và dầu thoa, trong lúc tùy hỷ và có tâm tịnh tín, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các cõi trời.

8. Thành tín, cùng cơm nước cúng dường,
Vòng hoa tươi tốt, các mùi hương,
Với tâm thanh tịnh, gieo an lạc,
Ấy mang hạnh phúc mọi thiên đường.

1515. Yamariyadhammena punanti vaddhā ārādhitā samacariyāya santo, bahussutā isayo sīlavantaṃ arahantamajjhe sotthānaṃ tadāhu.

1515. Người nào mà các bậc trưởng thượng, các bậc an tịnh đã được hoàn thành nhờ vào việc thực hành đúng đắn, các bậc ẩn sĩ đa văn, có giới hạnh, làm cho trong sạch nhờ vào Thánh pháp, người ấy đã chúc tụng sự an lành ở giữa các bậc A-la-hán.

9. Các trí nhân thuần thiện, chánh chân,
Tâm tư rửa sạch, gắng tinh cần,
Theo đời thanh tịnh, người hiền trí,
Phúc lạc thay người giữa Thánh nhân!



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada