1496. Yo na hanti na ghāteti na jināti na jāpaye, mettaṃso sabbabhūtesu veraṃ tassa na kenacī ”ti.

1496. Người nào không giết hại, không bảo giết hại, không thống trị, không bảo thống trị, có tâm từ ái đối với tất cả chúng sanh, người ấy không có oán thù với bất cứ ai.”

10. Người nào thân ái với muôn loài,
Không hại và không bảo hại ai,
Không quấy nhiễu, không ai quấy nhiễu,
Không thấy gì sân hận vì người.

1497. Saccaṃ kira tvampi bhūripañño yā tādisī siri dhitī mutī ca, na tāyate bhāvavasūpanītaṃ yo yāvakaṃ bhuñjasi appasūpaṃ.

1497. “(Điều vị Senaka đã nói) quả đúng là sự thật, ngài dầu có trí tuệ uyên bác, thêm vào sự vinh quang, nghị lực, và thông minh như thế ấy vẫn không bảo vệ được vị thế và quyền lực đã đạt đến của ngài, khiến ngài phải ăn món lúa mạch với ít nước xúp.”

40. Có thật ngài là bậc Trí nhân,
Như người đồn có trí uyên thâm,
Vậy tài trí, đại vinh quang ấy,
Chẳng phục vụ ngài đúng nghĩa chăng,
Và đã trở thành không ý nghĩa,
Trong khi ngài nuốt chút cơm hầm?

1498. Sukhaṃ dukkhena paripācayanto kālākālaṃ vicinaṃ chandachanno, atthassa dvārāni avāpuranto tenāhaṃ tussāmi yavodanena.

1498. “Trong khi làm tăng trưởng hạnh phúc với sự khó nhọc, trong khi xem xét thời điểm hoặc chưa phải thời điểm, ta đã che giấu lòng mong muốn trong khi mở ra các cánh cửa đưa đến điều lợi ích; vì thế, ta hài lòng với cơm lúa mạch.

41. Vinh quang ta tạo bởi gian truân,
Đúng lúc, trái thời, ta biệt phân,
Để ẩn náu mình theo ý muốn,
Mở toang các cửa lợi vô ngần,
Cho nên ta biết điều tri túc,
Với chút cơm hầm, vẫn muốn ăn.

1499. Kālañca ñatvā abhijīhanāya mantehi atthaṃ paripācayitvā, vijambhissaṃ sīhavijambhitāni tāyiddhiyā dakkhasi maṃ punāpi.

1499. Và sau khi nhận biết thời điểm cho việc ra sức, sau khi làm cho chín muồi sự lợi ích thông qua các kế hoạch, ta sẽ phô trương bản thân tựa như con sư tử đã vươn dậy; với sự thành tựu ấy, ngươi cũng sẽ gặp lại ta.”

42. Khi ta nhận thấy đúng thời cơ,
Nỗ lực tạo thành mối lợi to,
Theo kế hoạch, ta liền chịu đựng,
Can cường chẳng khác một thanh sư,
Và nhờ năng lực oai hùng ấy,
Ông sẽ thấy ta trở lại mà.

1500. Sukhīhi eke na karonti pāpaṃ avaṇṇasaṃsaggabhayā puneke, pahū samāno vipulatthacintī kiṃ kāraṇā me na karosi dukkhaṃ.

1500. “Một số người không làm điều ác bởi vì họ hạnh phúc, thêm nữa một số người do sợ hãi việc dính líu đến điều tai tiếng; còn khanh, trong khi đang có nhiều ý tưởng về những lợi ích lớn lao, vì lý do gì mà khanh không gây ra sự khổ đau cho trẫm?”

43. Lắm kẻ không gây tạo lỗi lầm,
Bởi vì họ đã được giàu sang,
Nhưng nhiều người chẳng gây lầm lỗi,
Vì sợ bùn nhơ cấu uế tâm,
Con đủ tài năng làm sự nghiệp,
Sao con không hãm hại vương quân?

1501. Na paṇḍitā attasukhassa hetu pāpāni kammāni samācaranti, dukkhena phuṭṭhā khalitattāpi santā chandā ca dosā na jahanti dhammaṃ.

1501. “Các bậc sáng suốt không vì nguyên nhân hạnh phúc của bản thân mà tạo ra các ngiệp ác xấu. Những người tốt, dầu bị tác động bởi khổ đau, dầu bản thân bị vấp ngã, cũng không vì tham muốn và sân hận mà từ bỏ thiện pháp.”

44. Bậc Trí giả không tạo lỗi lầm,
Chỉ vì lạc thú hưởng giàu sang,
Thiện nhân dù gặp cơn tai họa,
Và bị lâm vào cảnh khốn nàn,
Chẳng vì thân hữu hay thù hận,
Mà phải khước từ đạo chánh chân.

1502. Yena kenaci vaṇṇena mudunā dāruṇena vā, uddhare dīnamattānaṃ pacchā dhammaṃ samācare.

1502. “Bằng bất cứ cách thức nào, mềm mỏng hay thô bạo, nên đưa bản thân ra khỏi tình trạng khốn khó, rồi sau đó mới thực hành thiện pháp.”

45. Người nào vì bất cứ nguyên nhân,
Dù nhỏ, dù to, với bản thân,
Đưa chính mình lên từ chỗ thấp,
Về sau tiến bước đạo Như chân.

1503. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.

1503. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ hãm hại bạn bè là kẻ ác xấu.

46. Dưới một gốc cây bóng mát lành,
Nếu ta ngồi xuống nghỉ thân mình,
Chặt cành lá ấy là làm phản,
Bọn giả dối, ta phải ghét khinh.

1504. Yassāhi dhammaṃ manujo vijaññā ye cassa kaṅkhaṃ vinayanti santo, taṃ hissa dīpañca parāyaṇañca na tena mittaṃ jarayetha pañño.

1504. Nhờ vào vị nào mà một người có thể nhận thức được lẽ phải, và các bậc thiện nhân dẹp bỏ mối nghi ngờ đối với người này, chính vị ấy là hòn đảo và là nơi nương tựa của người này; người có sự hiểu biết không nên hủy hoại tình bạn với vị ấy.”

47. Nếu một người khai đạo chánh chân,
Đánh tan nghi hoặc của tha nhân,
Người này thành một nơi nương tựa,
Và bảo hộ cho chính bản thân,
Bậc Trí không bao giờ hủy diệt,
Mối dây này kết hợp thân bằng.

1505. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu asaññato pabbajito na sādhu, rājā na sādhu anisammakārī yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.

1505. “Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt, bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt, vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt, người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.

48. Ta ghét thế nhân đắm dục tình,
Giả tu là dối gạt rành rành,
Hôn quân xử án không nghe thấy,
Sân hận người hiền chẳng biện minh.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada