1476. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna māṇavā ”ti.

1476. Tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe ngươi, tôi không sầu muộn, không khóc lóc.”

10. Tên vừa nhổ, khỏi đau ngay,
Giữ tâm thanh thản, ta rày khinh an,
Nghe lời chân thật, hỡi chàng,
Ta không còn phải khóc than muộn phiền.

1477. Apacantāpi dicchanti santo laddhāna bhojanaṃ, kimeva tvaṃ pacamāno yaṃ na dajjā na taṃ samaṃ.

1477. “Những người tốt vẫn mong muốn bố thí, mặc dầu chưa nấu chín vật thực đã có được, vậy thì tại sao ông không muốn cho trong khi đang nấu chín (thức ăn), việc ấy là không đúng đắn đối với ông?

1. Khi món ăn không có giữa nồi,
Thiện nhân tìm, chẳng chối từ hoài,
Còn ngài đang nấu, thì không tốt
Nếu chẳng muốn chia xẻ với ai.

1478. Maccherā ca pamādā ca evaṃ dānaṃ na dīyati, puññaṃ ākaṅkhamānena deyyaṃ hoti vijānatā.

1478. Như vậy, vật thí không được cho ra do sự bỏn xẻn và do sự xao lãng. Người có sự nhận thức, trong khi mong mỏi phước báu, nên thực hành bố thí.

2. Phóng dật, xan tham, kẻ chối từ
Chẳng hề đem bố thí bao giờ,
Còn người nào thích làm công hạnh,
Là một trí nhân, phải biết cho.

1479. Yasseva bhīto na dadāti maccharī tadeva adadato bhayaṃ, jighacchā ca pipāsā ca yassa bhāyati maccharī, tameva bālaṃ phusati asmiṃ loke paramhi ca.

1479. “Bị sợ hãi về sự đói và sự khát mà kẻ bỏn xẻn không bố thí; chính nỗi sợ hãi ấy có ở kẻ không bố thí. Kẻ bỏn xẻn sợ hãi về sự đói và sự khát, chính việc ấy đáp trả lại kẻ ngu ở đời này và ở đời sau.

3. Sợ khi khát nước hoặc thèm cơm
Khiến bọn xan tham phải hoảng hồn,
Trong cõi đời này, đời kế nữa,
Bọn ngu kia phải trả hoàn toàn.

1480. Tasmā vineyya maccheraṃ dajjā dānaṃ malābhibhū, puññāni paralokasmiṃ patiṭṭhā honti pāṇinaṃ.

1480. Vì thế, người chiến thắng tật xấu nên dẹp bỏ tánh bỏn xẻn, nên ban phát vật thí. Các phước báu là nơi nương nhờ của chúng sanh trong đời vị lai.

4. Vậy nên bố thí, tránh xan tham,
Rửa sạch tâm nhơ ác dục tràn,
Trong cõi đời sau, nhiều thiện nghiệp
Sẽ là nơi trú tuyệt an toàn.

1481. Duddadaṃ dadamānānaṃ dukkaraṃ kamma kubbataṃ, asanto nānukubbanti sataṃ dhammo durannayo.

1481. “Trong khi họ cho vật khó cho, trong khi họ làm công việc khó làm, những kẻ xấu không làm theo được; pháp của những người tốt là khó đạt đến.

5. Thực khó làm như các thiện nhân,
Phát ban như các vị đem ban,
Khó mà kẻ ác làm theo được
Cuộc sống hiền nhân vẫn trú an.

1482. Tasmā satañca asatañca nānā hoti ito gati, asanto nirayaṃ yanti santo saggaparāyanā.

1482. Vì thế, cảnh giới tái sanh sau kiếp này dành cho những người tốt và những kẻ không tốt là khác nhau, những kẻ không tốt đi địa ngục, những người tốt có sự đi đến cõi trời.”

6. Vậy thì khi phải giã từ trần,
Kẻ ác, người hiền bỏ thế gian,
Kẻ ác tái sinh vào địa ngục,
Người hiền sinh ở cõi thiên đàng.

1483. Appasmeke pavecchanti bahuneke na dicchare, appasmā dakkhiṇā dinnā sahassena samaṃ mitā.

1483. “Một số người dầu có ít vẫn ban phát, một số khác có nhiều nhưng không bố thí. Sự cúng dường được dâng hiến (với đức tin) dầu ít ỏi, được xác định tương đương với một ngàn lần (sự bố thí bình thường).

7. Có người ít của vẫn đem ban,
Có kẻ không cho, dẫu của tràn,
Người ít của cho không thể kém
Kẻ kia ban phát cả trăm ngàn.

1484. Dhammaṃ care yopi samuñjakaṃ care dārañca posaṃ dadaṃ appakasmiṃ, sataṃ sahassānaṃ sahassayāginaṃ kalampi nāgghanti tathāvidhassa te.

1484. “Thậm chí người nào sống nhờ vào việc lượm lặt, cũng nên thực hành thiện pháp, ngay trong lúc chu cấp vợ và con, vẫn hành pháp bố thí mặc dầu ít ỏi. Các sự cúng tế một trăm ngàn đồng tiền của một ngàn kẻ chủ tế không giá trị bằng một phần mười sáu pháp bố thí của người như thế ấy.”

8. Dù sống chắt chiu, phải chánh chân,
Con nhiều, của ít vẫn đem phân,
Trăm ngàn đồng bạc người giàu cúng
Chẳng sánh quà con của tiện dân.

1485. Kenesa yañño vipulo mahagghato samena dinnassa na agghameti, kathaṃ sahassānaṃ sahassayāginaṃ kalampi nāgghanti tathāvidhassa te.

1485. “Vì sao sự cúng tế vĩ đại, có giá trị lớn, không sánh bằng giá trị của việc bố thí đúng pháp? Tại sao các sự cúng tế một trăm ngàn đồng tiền của một ngàn kẻ chủ tế không giá trị bằng một phần mười sáu pháp bố thí của người như thế ấy?”

9. Sao dồi dạt lễ vật cao sang
Giá trị không bằng vật chánh chân,
Sao cả ngàn đồng từ phú hộ
Chẳng bằng quà mọn kẻ cùng bần?



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada