1466. Taṃ tādisaṃ kuṭamivoḍḍitaṃ vane adhammikaṃ niccavidhaṃsakārinaṃ, ārā vivajjeyya naro vicakkhaṇo senaṃ yathā kukkuṭo vaṃsakānane ”ti.

1466. Người khôn ngoan nên tránh né thật xa kẻ như thế ấy, kẻ không đạo đức, thường xuyên gây ra sự phá hoại, tựa như tránh né cái bẫy đã được trương ra ở trong rừng, giống như con gà trống tránh né chim diều hâu ở trong khu rừng tre rậm.”

11. Bẫy đó thông thường lại dối gian,
Giết người, dấu kín giữa rừng hoang,
Như Gà xa lánh Diều hâu ấy,
Người có nhãn quan phải kiếm đàng.

1467. Alaṅkato maṭṭakuṇḍalī mālāhāri haricandanussado, bāhā paggayha kandasi vanamajjhe kiṃ dukkhito tuvaṃ.

1467. “Ngươi đã được trang điểm, có bông tai đã được đánh bóng, có mang tràng hoa, có thoa trầm hương màu vàng, sau khi giơ hai cánh tay lên rồi than khóc ở giữa khu rừng, ngươi bị khổ đau điều gì?”

1. Sao giữa rừng này có cậu trai,
Tràng hoa, vòng ngọc mỗi bên tai,
Chiên-đàn sực nức, giơ tay nọ,
Sầu khổ gì rơi lệ vắn dài?

1468. Sovaṇṇamayo pabhassaro uppanno rathapañjaro mama, tassa cakkayugaṃ na vindāmi tena dukkhena jahāmi jīvitaṃ.

1468. “Khung xe làm bằng vàng, rực rỡ, được phát sanh lên cho tôi. Tôi không tìm ra cặp bánh xe cho nó. Vì nỗi khổ đau ấy, tôi từ bỏ mạng sống.”

2. Vàng ròng đúc, chiếu rực hào quang,
Xe ấy con thường vẫn ngã lưng,
Ðôi bánh này con tìm chẳng thấy,
Chắc con buồn khổ đến lìa trần!

1469. Sovaṇṇamayaṃ maṇimayaṃ lohamayaṃ atha rūpiyāmayaṃ, pāvada rathaṃ kārayāmi te cakkayugaṃ paṭipādayāmi taṃ.

1469. “Nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng đồng, hay làm bằng bạc? Ngươi hãy nói ra, ta sẽ cho người làm chiếc xe cho ngươi. Ta sẽ giúp cho ngươi đạt được cặp bánh xe.”

3. Bằng vàng, dát ngọc, loại gì nào,
Bằng bạc, hay đồng, trí nghĩ sao,
Cứ nói ra lời, xe được đóng,
Ta tìm đôi bánh sẽ thêm vào!

1470. So māṇavo tassa pāvadi candasuriyā ubhayettha bhātaro, sovaṇṇamayo ratho mama tena cakkayugena sobhati.

1470. Người thanh niên ấy đã nói với ông ấy rằng: “Ở đây, mặt trăng và mặt trời là anh em; cỗ xe của tôi làm bằng vàng, được chói sáng với cặp bánh xe ấy.”

4. Nghe nói xong, chàng trẻ đáp lời,
Trong khi chàng ngâm tiếp theo phần còn lại:
Ðằng kia, huynh đệ đó, trăng trời,
Chính nhờ đôi bánh đằng xa ấy,
Xe của con vàng chiếu sáng ngời!

1471. Bālo kho tvamsi māṇava yo tvaṃ patthayase apatthiyaṃ, maññāmi tuvaṃ marissasi na hi tvaṃ lacchasi candasūriye.

1471. “Này người thanh niên, ngươi quả thật khờ dại, ngươi mong mỏi vật không thể mong mỏi. Ta nghĩ rằng ngươi sẽ chết bởi vì ngươi sẽ không đạt được mặt trăng và mặt trời.”

5. Chàng thật ngu vì việc đã làm,
Cầu xin chuyện chẳng có ai ham,
Bởi vì ta chắc chàng nên chết
Nhật, nguyệt, đòi sao được hỡi chàng?

1472. Gamanāgamanampi dissati vaṇṇadhātu ubhayettha vīthiyo, peto pana neva dissati ko nu kho kandataṃ bālyataro.

1472. “Việc đi và đến (của mặt trăng và mặt trời) còn được nhìn thấy. Ở đây, màu sắc và bản chất, lộ trình của cả hai được biết đến. Trái lại, người đã qua đời không được nhìn thấy. Vậy thì trong hai người đang khóc lóc, người nào khờ dại hơn?”

6. Trước mắt, trời, trăng, lặn, mọc dần,
Sắc màu, đường hướng vẫn không ngừng;
Còn ai thấy được hồn người chết,
Vậy kẻ nào ngu lúc khóc than?

1473. Saccaṃ kho vadesi māṇava ahameva kandataṃ bālyataro, candaṃ viya dārako rudaṃ petaṃ kālakatābhipatthaye.

1473. “Này người thanh niên, quả nhiên ngươi nói đúng sự thật. Trong hai người đang khóc lóc, chính ta là khờ dại hơn. Ta đang mong mỏi người chết, đã qua đời, ví như đứa bé trai đang khóc đòi mặt trăng.”

7. Giữa ta, hai kẻ khóc than thân,
Chàng thật khôn, ta thật độn đần,
Quả đúng, đòi hồn người đã chết,
Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?

1474. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃ va pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.

1474. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.

8. Lòng ta thiêu đốt nóng bừng, Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
Chàng đà đem nước lạnh vào,
Và chàng dập tắt khát khao, tủi buồn.

1475. Abbahī vata me sallaṃ yamāsi hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.

1475. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên đã cắm vào trái tim của tôi.

9. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
Chàng đà an ủi khuây khỏa
Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada