1455. Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ chattaṃ mahantaṃ viya vassakāle, dhammena gutto mama dhammapālo aññassa aṭṭhīni sukhī kumāro ”ti.

1455. Thật vậy, thiện pháp hộ trì người có sự thực hành thiện pháp, ví như chiếc lọng to lớn bảo vệ con người vào thời điểm của cơn mưa. Con trai Dhammapāla của tôi được bảo vệ bởi thiện pháp; các khúc xương là của người khác, con trai của tôi được an vui.”

11. Ðạo đức hộ phò bậc chánh nhân,
Như cây che bóng giữa mưa tràn,
Thằng con sống được nhờ hành thiện,
Tâm thiện cho người Hộ Pháp-an;
Còn đó là xương khô kẻ khác,
Ðống xương Tôn giả mới vừa mang.

1456. Nāsmase katapāpamhi nāsmase alikavādine, nāsmasattaṭṭhapaññamhi atisantepi nāsmase.

1456. “Không nên tin cậy người làm ác, không nên tin cậy người nói không thật, không nên tin cậy người chỉ biết lợi ích của bản thân, thậm chí không nên tin cậy người quá an tịnh.

1. Ðừng đặt lòng tin bọn dối lừa,
Những ai chỉ biết lời riêng tư,
Hoặc người đã phạm nhiều điều ác,
Những kẻ tỏ ra quá phụng thờ.

1457. Bhavanti heke purisā gopipāsakajātikā, ghasanti maññe mittāni vācāya na ca kammunā.

1457. Thật vậy, có nhiều người có bản tính thèm khát của loài bò. Tôi nghĩ rằng họ làm vui lòng các bạn bè bằng lời nói mà không bằng hành động.

2. Lắm kẻ bản tâm giống lũ bò,
Tràn đầy khao khát với tham ô,
Nói lời thành thật nâng niu bạn,
Song chẳng hề hành động thế mà.

1458. Sukkhañjalī paggahītā vācāya paḷiguṇṭhitā, manussapheggu nāsīde yasmiṃ natthi kataññutā.

1458. Những người chìa ra bàn tay khô khan, che đậy bằng lời nói, là những người vô tích sự, không nên thân cận hạng người không có sự biết ơn.

3. Bọn chúng chìa tay lạnh trống trơn,
Nói lời che dấu cả tâm hồn,
Bọn người phù phiếm, ta nên tránh,
Những kẻ không hề biết nhớ ơn.

1459. Na hi aññañña cittānaṃ itthīnaṃ purisāna vā, nānāva katvā saṃsaggaṃ tādisampi nāsmase.

1459. Không nên thiết lập sự giao thiệp chặt chẽ với những người nữ, hoặc với những người nam có tâm thay đổi, thậm chí không nên tin cậy người như thế ấy.

4. Nam nữ nào tâm chóng đổi thay,Ðừng tin tưởng các bọn người này,
Cũng đừng tin kẻ theo chiều hướng
Làm hiệp ước rồi lại phá ngay.

1460. Anariyakammaṃ okkantaṃ atthetaṃ sabbaghātinaṃ, nisitaṃva paṭicchannaṃ tādisampi nāsmase.

1460. Người phạm đến hành động không thánh thiện, (có lời nói) không quả quyết, là người giết hại tất cả (khi đạt được cơ hội), tựa như giươm bén được che đậy, thậm chí không nên tin cậy người như thế ấy.

5. Người bước theo đường ác vẫn đi
Ðến làm mọi việc cực gian nguy,
Liều thân, vô định, đừng tin nó,
Kiếm sắc trong bao có khác gì?

1461. Mittarūpenidhekacce sākhallena acetasā, vividhehi upāyehi tādisampi nāsmase.

1461. Ở đây, một số người với vẻ ngoài bạn bè, với lời nói trau chuốt nhưng không phải tự tâm, theo nhiều phương thức khác nhau, thậm chí không nên tin cậy người như thế ấy.

6. Nhiều kẻ nói năng thật dịu lành,
Những lời không phải tự tâm thành,
Lòng tin chớ đặt vào trong chúng,
Cố lấy lòng nên giả thật tình.

1462. Āmisaṃ vā dhanaṃ vāpi yattha passati tādiso, dūbhiṃ karoti dummedho tañca jhatvāna gacchati.

1462. Kẻ như thế ấy nhìn thấy thức ăn hay tài sản ở nơi nào, kẻ ngu muội ấy lập kế chống đối, đốt cháy vật ấy, rồi bỏ đi.”

7. Khi kẻ ác tâm ấy ngắm xem
Thức ăn hoặc lợi nhuận kề bên,
Nó hành động ác và đi mất,
Nhưng nó làm nguy bạn trước tiên.

1463. Mittarūpena bahavo channā sevanti sattavo, jahe kāpurise hete kukkuṭo viya senakaṃ.

1463. “Với vẻ ngoài bạn bè, nhiều kẻ thù giấu diếm (bản chất xấu xa), rồi thân cận; nên rời khỏi những con người tồi tệ này, tựa như con gà trống rời khỏi chim diều hâu.

8. Lắm kẻ thù ra vẻ thiết thân,
Ra tay giúp đỡ sẵn sàng luôn,
Như Gà rời bỏ Diều hâu ấy,
Tốt nhất nên lìa những ác nhân.

1464. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ na khippamanubujjhati, amittavasamanveti pacchā ca-m-anutappati.

1464. Và người nào không mau chóng nhận biết sự việc đã sanh khởi, rồi đi theo sự khống chế của kẻ thù, về sau sẽ hối tiếc.

9. Người nào không nhạy bén nhìn xa
Ý nghĩa việc làm diễn biến ra,
Phải chịu bao cừu nhân chế ngự,
Ăn năn hối hận buổi sau mà.

1465. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva nibodhati, muccate sattusambādhā kukkuṭo viya senakā.

1465. Và người nào mau chóng nhận chân sự việc đã sanh khởi, người ấy thoát khỏi sự ngược đãi của kẻ thù, tựa như con gà trống thoát khỏi chim diều hâu.

10. Nhanh trí, người nào nhận thấy ngay
Việc làm mang ý nghĩa nào đây,
Như Gà tránh bẫy Diều hâu ấy,
Vậy tránh cừu nhân, phải chạy bay.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada