1443. Yā te sā bhariyā anariyarūpā mātā mamesā sakiyā janetti, dantā kareṇūva vasūpanītā sā pāpadhammā punarāvajātū ”ti.
1443. “Người vợ của cha có vẻ không thánh thiện. Bà ấy là mẹ của con, là người mẹ ruột. Tựa như con voi cái đã được huấn luyện, đã được khép vào kỷ cương, hãy cho người dàn bà có bản tánh xấu xa ấy trở về nhà.”
10. Bà vợ cha kìa, bạc ác thay,
Người sinh con trẻ, chính là đây,
Như voi được luyện rất thuần thục,
Cho trở lui, người tội lỗi này.
1444. Kinte vataṃ kimpana brahmacariyaṃ kissa suciṇṇassa ayaṃ vipāko, akkhāhi me brāhmaṇa etamatthaṃ kasmā hi tumhaṃ daharā na mīyare.
1444. “Phận sự gì của ngài, và Phạm hạnh gì, thiện hạnh gì đem lại quả thành tựu này? Thưa Bà-la-môn, xin ngài hãy giải thích cho tôi về sự việc này, vì sao những người trẻ của ngài không bị chết (lúc còn trẻ)?”
1. Tục lệ nào hay Thánh đạo nào
Quả này do thiện nghiệp từ đâu?
Bà-la-môn, nói ta duyên cớ
Người trẻ trong dòng chẳng chết sao?
1445. Dhammaṃ carāma na musā bhaṇāma pāpāni kammāni vivajjayāma, anariyaṃ parivajjemu sabbaṃ tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1445. “Chúng tôi thực hành thiện pháp, chúng tôi không nói lời dối trá, chúng tôi từ bỏ hẳn các việc làm độc ác, chúng tôi lánh xa tất cả việc không thánh thiện; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).”
2. Ta không lời dối, sống hiền chân,
Mọi ác nghiệp xa lánh, chẳng gần,
Ðiều bất thiện ta đều tránh cả,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1446. Suṇoma dhammaṃ asataṃ sataṃ ca na cāpi dhammaṃ asataṃ rocayāma, hitvā asante na jahāma sante tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1446. Chúng tôi nghe giáo lý của những kẻ không tốt và của những vị tốt, những chúng tôi không vui thích giáo lý của những kẻ không tốt. Sau khi từ bỏ những kẻ không tốt và không từ bỏ những vị tốt; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
3. Nghe việc người ngu lẫn trí nhân,
Việc người ngu trí chẳng quan tâm,
Ta theo bậc trí, ngu ta bỏ,
Nên chẳng ai người chết giữa xuân.
1447. Pubbeva dānā sumanā bhavāma dadampi ce attamanā bhavāma, datvāpi ce nānutappāma pacchā tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1447. Ngay trước việc bố thí, chúng tôi vui mừng; và trong lúc bố thí, chúng tôi hoan hỷ; bố thí xong, chúng tôi không hối tiếc sau đó; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
4. Trước khi bố thí, dạ hân hoan,
Lòng thật vui mừng lúc phát phân,
Khi bố thí xong, không hối tiếc,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1448. Samaṇe mayaṃ brāhmaṇe addhike ca vaṇibbake yācanake daḷidde, annena pānena abhitappayāma tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1448. Chúng tôi làm hài lòng các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, các khách lữ hành, những người cùng khổ, những người ăn xin, những người nghèo đói với cơm ăn và nước uống; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
5. Ta mời đám lữ khách, La-môn,
Khất sĩ, Sa-môn, mọi kẻ cần,
Ta đãi uống, ăn, người đói khát,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1449. Mayañca bhariyā nātikkamāma amhe ca bhariyā nātikkamanti, aññatra tāhi brahmacariyaṃ carāma tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1449. Chúng tôi không phản bội những người vợ, và những người vợ không phản bội chúng tôi, ngoài những người vợ ấy ra, chúng tôi gìn giữ sự thanh khiết (đối với những người phụ nữ khác); chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
6. Cưới vợ, không khao khát vợ người,
Giữ lời loan phụng đã thề bồi,
Vợ hiền tiết hạnh tòng phu cả,
Nên các con không sớm bỏ đời.
1450. Pāṇātipātā viramāma sabbe loke adinnaṃ parivajjayāma, amajjapā no ca musā bhaṇāma tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1450. Tất cả chúng tôi chừa bỏ việc giết hại mạng sống, chúng tôi lánh xa việc trộm cắp ở thế gian, không có việc uống chất say, và không có việc chúng tôi nói dối; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
1451. Etāsu ce jāyare suttamāsu medhāvino honti pahūtapaññā, bahussutā vedaguno ca honti tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1451. Những đứa con sanh ra từ những người phụ nữ tuyệt vời ấy là những người thông minh, có nhiều trí tuệ, học rộng, và hiểu biết sâu sắc; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
7. Con được sinh từ vợ chính chuyên,
Tài cao, học rộng, xứng danh hiền,
Vệ-đà thông thạo, con toàn hảo,
Nên chẳng lìa đời giữa thiếu niên.
1452. Mātāpitā ca bhaginī bhātaro ca puttā ca dārā ca mayañca sabbe, dhammaṃ carāma paralokahetu tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1452. Những người mẹ, những người cha, những chị em gái, những anh em trai, những người con trai, những người vợ, và tất cả chúng tôi thực hành thiện pháp vì nguyên nhân của đời sau; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
8. Gắng làm chân chánh đạt cao thiên,
Sống vậy, từ cha đến mẹ hiền,
Ðến mọi gái trai, anh chị nữa,
Nên không ai chết giữa thanh niên.
1453. Dāsā ca dasso anujīvino ca paricārakā kammakarā ca sabbe, dhammaṃ caranti paralokahetu tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1453. Các tôi trai, các tớ gái, và những người sống phụ thuộc, những người hầu cận, và những người làm công, tất cả đều thực hành thiện pháp vì nguyên nhân của đời sau; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
9. Mong cầu thiên giới, các gia nhân,
Trai gái thảy đều sống thiện lương,
Ngay bọn nô tỳ thấp kém nhất,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1454. Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti, esānisaṃso dhamme suciṇṇe na duggatiṃ gacchati dhammacārī.
1454. Thật vậy, thiện pháp hộ trì người có sự thực hành thiện pháp. Thiện pháp khéo được thực hành đem lại sự an lạc. Điều này là quả báu khi thiện pháp khéo được thực hành: Người có sự thực hành thiện pháp không đi đến cảnh giới khổ đau.
10. Chánh đạo cứu ai hướng chánh chân,
Khéo hành Chánh đạo đạt hồng ân,
Phúc này ban tặng người làm chánh,
Người chánh không vào chốn khổ thân.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada