1433. Nigrodhameva seveyya na sākhamupasaṃvase, nigrodhasmiṃ mataṃ seyyo yañce sākhasmi jīvitan ”ti.

1433. “Con nên phục vụ chỉ riêng Nigrodha, chớ có sống thân cận với Sākha. Thà bị chết ở nơi Nigrodha còn tốt hơn nếu phải sống cùng Sākha.”

10. Ta cần sống với Ni-gro-dha
Chẳng tốt gì hầu hạ Sà-kha,
Nếu phải sống cùng Nhành, đại tướng,
Thà nên chịu chết với vua Ða.

1434. Na takkaḷā santi na ālupāni na biḷāliyo na kalambāni tāta, eko araññamhi susānamajjhe kimatthiko tāta khaṇāsi kāsuṃ.

1434. “Thưa cha, không có củ takkaḷa, không có củ ālupa, không có củbiḷāli, không có củ kalamba. Thưa cha, một mình ở trong rừng, giữa nơi mộ địa, cha đào cái hố vì mục đích gì?”

1. Chẳng rau để luộc, cũng không hành,
Chẳng bạc hà, cây để nấu canh,
Nếu chẳng cần, sao cha bới đất
Một mình, trong nghĩa địa rừng xanh?

1435. Pitāmaho tāta sudubbalo te anekavyādhīhi dukhena phuṭṭho, tamajjahaṃ nikhaṇissāmi sobbhe na hissa taṃ jīvitaṃ rocayāmi.

1435. “Này con, bị tác động bởi sự khổ đau do nhiều căn bệnh, ông nội của con có sức khỏe rất kém. Hôm nay, cha sẽ chôn ông ở trong huyệt, bởi vì cha không vui thích khi ông nội có cuộc sống như thế ấy.”

2. Ông nội già nua, quá yếu gầy,
Do nhiều bệnh hoạn, khổ tràn đầy,
Cha chôn ông nội trong mồ đó,
Cha chẳng muốn ông sống thế này.

1436. Saṅkappametaṃ paṭiladdha pāpaṃ accāhitaṃ kamma karosi luddaṃ, mayāpi tāta paṭilacchase tuvaṃ etādisaṃ kamma jarūpanīto, taṃ kullavattaṃ anuvattamāno
ahampi taṃ nikhaṇissāmi sobbhe.

1436. “Cha gây nên nghiệp vô cùng tai hại, tàn bạo, sau khi đạt đến ý định độc ác ấy. Thưa cha, cha cũng sẽ nhận lãnh nghiệp như thế ấy do con, khi cha đã già. Trong khi tiếp nối truyền thống ấy của gia tộc, con cũng sẽ chôn cha ở trong huyệt.”

Cha cầu việc ấy, tội đà gây,
Vì việc làm này độc ác thay!

3. Con sẽ thờ cha lúc tuổi già
Như cha đối xử với ông nhà,
Theo phong tục ấy trong gia tộc,
Con cũng chôn cha dưới hố mà.

1437. Pharusāhi vācāhi pakubbamāne āsajja maṃ tvaṃ vadase kumāra, putto mama orasako samāno ahitānukampi me tvaṃsi putta.

1437. “Này con trẻ, trong khi làm vậy, con đã công kích và nói với cha bằng những lời nói độc ác. Này con trai, trong khi là con trai ruột của cha, con cũng đã không có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha.”

4. Thằng bé nói lời ác nghiệt thay,
Ông cha sao mắng mỏ như vầy!
Nghĩ rằng con trẻ rầy la bố,
Với bạn chí tình, tệ lắm đây!

1438. Na tāhaṃ tāta ahitānukampī hitānukampi te ahaṃpi tāta, pāpañca taṃ kamma pakubbamānaṃ arahāmi no vārayituṃ tato hi.

1438. “Thưa cha, không phải là con không có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha. Thưa cha, con cũng có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha. Trong khi cha đang làm hành động độc ác ấy, con có khả năng để cản ngăn chúng ta khỏi làm công việc ấy.”

5. Con không tồi tệ hoặc hung tàn,
Con đối với cha, dạ thiết thân,
Nhưng việc này cha làm đại ác,
Sức nào gỡ lại, nếu sai lầm?

1439. Yo mātaraṃ pitaraṃ vā vasiṭṭha adūsake hiṃsati pāpadhammo, kāyassa bhedā abhisamparāyaṃ asaṃsayaṃ so nirayaṃ pareti.

1439. Này Vasiṭṭha, kẻ nào có bản tánh độc ác, hãm hại mẹ hoặc cha, những người không đồi bại, do sự hoại rã của thân, vào kiếp kế tiếp, kẻ ấy sẽ đi đến địa ngục một cách chắc chắn.

6. Người ác ý làm, hỡi Vat-tha,
Hại người vô tội, mẹ cùng cha,
Ðến khi người ấy thân vong hoại,
Ðịa ngục phải vào, chắc chẳng xa.

1440. Yo mātaraṃ pitaraṃ vā vasiṭṭha annena pānena upaṭṭhahāti, kāyassa bhedā abhisamparāyaṃ asaṃsayaṃ so sugatiṃ pareti.

1440. Này Vasiṭṭha, người nào phụng dưỡng mẹ hoặc cha với cơm ăn và nước uống, do sự hoại rã của thân, vào kiếp kế tiếp, kẻ ấy sẽ đi đến cảnh giới an vui một cách chắc chắn.”

7. Người dùng cơm nước, hỡi Vat-tha,
Ðem phụng dưỡng luôn mẹ với cha,
Người ấy đến khi thân hủy hoại,
Sẽ lên Thiên giới hiển nhiên mà.

1441. Na me tvaṃ putta ahitānukampī hitānukampi me tvaṃsi putta, ahañca taṃ mātarā vuccamāno etādisaṃ kamma karomi luddaṃ.

1441. “Này con trai, không phải là cha không có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của con. Này con trai, con cũng có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha. Và cha, trong khi bị mẹ của con xúi giục, cha mới gây nên nghiệp tàn bạo như thế ấy.”

8. Thấy con không tàn nhẫn, vong ơn,
Ðối với cha đầy dạ mến thương,
Chính bởi cha vâng lời của mẹ,
Ðịnh làm việc ác thật kinh hồn.

1442. Yā te sā bhariyā anariyarūpā mātā mamesā sakiyā janetti, niddhāpayetaṃ sakā agārā aññampi te sā dukhamāvaheyya.

1442. “Người vợ của cha có vẻ không thánh thiện. Bà ấy là mẹ của con, là người mẹ ruột. Cha nên đuổi bà ấy ra khỏi nhà của mình. Bà ấy còn có thể đem lại cho cha sự khổ đau khác nữa.”

9. Vợ cha là ác phụ vô lương,
Bà đã sinh con, chính mẹ con,
Ta hãy đuổi bà ra khỏi cửa,
Sợ bà gây việc khác cha buồn.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada