1423. Maṇḍavya bhāsissaṃ abhāsaneyyaṃ taṃ khamyataṃ puttahetu mamajja, puttapemā na idha paratthi kiñci so no ayaṃ jīvati yaññadatto ”ti.

1423. Này chàng Maṇḍavya, thiếp đã nói lời không nên nói. Mong chàng hãy tha thứ điều ấy cho thiếp hôm nay vì nguyên nhân của đứa con trai. Ở đây, không có bất cứ cái gì khác so với tình thương dành cho đứa con trai. Lời nói ấy đối với chúng ta là Yaññadatta này được sống.”

10. Giờ đây thiếp lỡ nói rồi,
Những điều chẳng đáng nên lời nói ra
Vì con, mong ước thứ tha,
Không gì hơn được mẹ cha nồng tình,
Yan-na, con của chúng mình
Trước đây đã chết, hồi sinh bây giờ!

1424. Na cāhametaṃ jānāmi kovāyaṃ kassa cāti vā, yathā sākho vadī evaṃ nigrodha kinti maññasi.

1424. “‘Ta không biết người này. Người này là ai hay là thuộc về ai?’ Giống như Sākha đã nói, này bạn Nigrodha, như vậy bạn nghĩ thế nào?

1. Người đó là ai, ta chẳng hay,
Ai là thân phụ của người đây,
Nhành còn hỏi: Nó là ai đó?
Ða hỡi, nghĩ sao trước việc này?

1425. Tato galavinītena purisā nīhariṃsu maṃ, datvā mukhapahārāni sākhassa vacanaṃ karā.

1425. Do bị nắm lấy ở cổ, các gia nhân, những kẻ tuân hành lệnh của Sākha, đã quẳng tôi ra khỏi nơi đó, sau khi đã cho những cú đấm vào mặt của tôi.

2. Ðầy tớ Nhành kia cứ y lời
Ðấm, thoi, tát, đánh khắp người tôi,
Rồi còn chụp lấy tôi vào cổ,
Từ đó lôi tôi quẳng phía ngoài.

1426. Etādisaṃ dummatinā akataññūna dubbhinā, kataṃ anariyaṃ sākhena sākhinā te janādhipa.

1426. Tâu quân vương, việc không cao thượng như thế ấy đã được thực hiện bởi kẻ có tâm xấu xa, kẻ vô ơn bạc nghĩa Sākha, bạn của bệ hạ.”

3. Phản bội như vầy đối với tôi,
Chỉ người độc ác mới làm thôi,
Vong ân bạc nghĩa là ô nhục,
Gã cũng bạn ngài, Chúa thượng ôi!

1427. Na vāhametaṃ jānāmi napi me koci saṃsati, yamme tvaṃ samma akkhāsi sākhena kaḍḍhanaṃ kataṃ.

1427. “Này khanh, Trẫm không biết việc này, và cũng không ai tấu cho trẫm việc mà khanh vừa nói với trẫm, là việc kéo đi do Sākha đã làm.”

4. Ta chẳng hề nghe, cũng chẳng hay
Một ai từng nói chuyện như vầy,
Xấu xa như bạn đang tường thuật,
Nhành ấy vừa làm tại chốn đây.

1428. Sakhīnaṃ sājīvakaro mama sākhassa cūbhayaṃ, tvaṃ no issariyaṃ dātā manusessu mahaggataṃ, tayamhā labhitā iddhi ettha me natthi saṃsayo.

1428. Khanh là người tạo ra cuộc sống cho bạn bè, cho cả hai người là trẫm và Sākha. Khanh là người ban cho chúng tôi vương quyền, địa vị quan trọng ở loài người. Quyền uy của chúng tôi đã đạt được là do bạn, về việc này trẫm không có hoài nghi.

5. Bạn cùng ta, sống với Sàk-kha,
Ðồng bọn chí tình thưở đã qua,
Bạn đã giành phần cho mỗi một,
Hướng quyền vương tước, tặng hai ta,
Vinh quang ta được là nhờ bạn,
Còn có gì nghi hoặc nữa mà.

1429. Yathāpi bījaṃ aggismiṃ ḍayhati na virūhati, evaṃ kataṃ asappurise nassati na virūhati.

1429. Cũng giống như hạt giống bị đốt cháy ở ngọn lửa thì không nảy mầm, tương tự như vậy, việc đã làm cho người xấu thì bị tiêu hoại, không tăng trưởng.

6. Khi hạt ném trong ngọn lửa hồng,
Cháy rồi, hạt chẳng thể gieo trồng
Ta làm việc thiện cho người ác,
Cũng vậy, nó tàn lụi diệt vong.

1430. Kataññumhi ca posamhi sīlavante ariyavuttine, sukhette viya bījāni kataṃ tamhi na nassati.

1430. Còn ở người biết ơn, có giới, có hành vi cao thượng, thì việc đã làm cho người ấy không bị tiêu hoại, ví như các hạt giống được gieo ở thửa ruộng tốt.”

7. Chúng chẳng như nhiều kẻ biết ơn,
Những người đức hạnh, bậc hiền lương,
Ðất lành, hạt chẳng hề quăng bỏ,
Như việc làm cho các thiện nhơn.

1431. Imañca jammaṃ nekatikaṃ asappurisacintakaṃ, hanantu sākhaṃ satthīhi nāssa icchāmi jīvitaṃ.

1431. “Các khanh hãy dùng các cây giáo giết chết gã Sākha hạ tiện này, kẻ lường gạt, kẻ có suy nghĩ của tiện nhân, trẫm không muốn gã này sống.”

8. Tóm tên hèn hạ bội ân này,
Tư tưởng nó đà xấu ác thay,
Ðâm nó! Vì ta cho nó chết,
Nghĩa gì đời nó với ta đây?

1432. Khamyatassa mahārāja pāṇā duppaṭiānayā, khama deva asappurisassa nāssa icchāmahaṃ vadhaṃ.

1432. “Tâu đại vương, xin hãy tha thứ cho kẻ này, bởi vì mạng sống (của người đã chết) là khó lấy lại. Tâu bệ hạ, xin ngài tha thứ cho kẻ xấu, thần không mong muốn cái chết của gã này.”

9. Ðại vương, mong mở lượng từ bi,
Thật khó tìm đời sống mất đi,
Chúa thượng dung tha cho nó sống,
Thần mong thằng khốn chẳng sầu chi.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada