1413. Anindho dhūmaketuva kodho yassūpasammati, āpūrati tassa yaso sukkapakkheva candimā ”ti.

1413. Ví như ngọn lửa không có nhiên liệu, người nào có sự giận dữ được yên lặng, thì danh tiếng của người ấy trở nên đầy đủ, tựa như mặt trăng thuộc thượng huyền được tròn dần.”

13. Người nào chế ngự được lòng sân,
Như lửa mà không có củi than,
Như trăng nửa tháng trời dần sáng,
Công đức người kia cứ mãi tăng.

1414. Sattāhamevāhaṃ pasannacitto puññatthiko acariṃ brahmacariyaṃ, athāparaṃ yaṃ caritaṃ mamayidaṃ vassāni paññāsa samādhikāni akāmako vāpi ahaṃ carāmi,
etena saccena suvatthi hotu hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.

1414. “Là người mong mỏi phước báu, có tâm tịnh tín, tôi đã thực hành Phạm hạnh trong bảy ngày. Rồi việc thực hành khác nữa của tôi là năm mươi năm về thiền định. Mặc dầu không có sự mong muốn, tôi cũng vẫn thực hành (Phạm hạnh). Do sự chân thật này, cầu mong có sự an lành, chất độc được tiêu tan, bé trai Yaññadatta hãy sống.”

1. Bảy ngày tâm trí thật thong dong,
Thanh tịnh sống đời ước lập công,
Từ đó năm mươi năm ẩn dật,
Chú tâm ta bộc bạch lời chân;
Nơi đây ta sống dù không muốn,
Lời thật này mong tạo phước ân,
Khiến nọc độc không còn hiệu lực,
Cậu trai này sẽ tỉnh lên dần.

415. Yasmā dānaṃ nābhinandiṃ kadāci disvānāhaṃ atithiṃ vāsakāle, na cāpi me appiyataṃ aveduṃ bahussutā samaṇā brahmanā ca akāmako vā hi ahaṃ dadāmi, etena saccena suvatthi hotu hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.

1415. “Mặc dù tôi không bao giờ thích thú việc bố thí khi tôi nhìn thấy người khách lạ vào thời điểm họ đi tìm chỗ ngụ, và ngay cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn học rộng cũng đã không biết được tâm trạng không ưa thích của tôi. Mặc dầu không có sự mong muốn, tôi cũng vẫn bố thí. Do sự chân thật này, cầu mong có sự an lành, chất độc được tiêu tan, con trai Yaññadatta hãy sống.”

2. Chẳng chút quan tâm vật cúng dường
Ta đem đãi mọi khách qua đường,
Song người hiền trí chưa hề biết
Ta đã tự kiềm chế bản thân;
Dù bố thí, ta lòng miễn cưỡng,
Cầu mong lời thật tạo hồng ân,
Làm cho nọc độc thành vô hiệu,
Thằng bé này đây được tỉnh dần.

1416. Āsīviso tāta pahūtatejo yo taṃ adaṃsi bilarā udicca tasmiñca me appiyatāya ajja, pitarañca te natthi koci viseso etena saccena suvatthi hotu hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.

1416. “Này con thương, con rắn độc có nhiều oai lực đã cắn con sau khi phóng ra khỏi hang, và tâm trạng không ưa thích của mẹ ngày hôm nay đối với con rắn cũng như đối với cha con là không có gì khác biệt. Do sự chân thật này, cầu mong có sự an lành, chất độc được tiêu tan, con trai Yaññadatta hãy sống.”

3. Rắn nọ cắn con mới nãy giờ,
Nằm trong lỗ ấy hỡi con thơ,
Và cha con đó, này ta bảo,
Là một, trong tim mẹ hững hờ,
Mong sự thật này mang phươc đức,
Nọc tan, con trẻ tỉnh hồn mơ!

1417. Santā dantā yeva paribbajanti aññatra kaṇhā anakāmarūpā, dīpāyana kissa jigucchamāno akāmako carasi brahmacariyaṃ.

1417. “Các bậc an tịnh, đã được rèn luyện, xuất gia (lìa thế tục), không có vẻ là không mong muốn, ngoại trừ vị Kaṇhā. Thưa ngài Dīpāyana, trong khi ngài chán ghét, không mong muốn (việc tu tập), vì lý do gì ngài vẫn thực hành Phạm hạnh?”

4. Người ta xuất thế, trí quang minh,
Thuần thục, tâm không chút bất bình,
Trừ bạn Kan-ha, sao thối chất,
Chẳng mong tiến bước đạo tu hành?

1418. Saddhāya nikkhamma punaṃ nivatto so eḷamūgova bālo vatāyaṃ, etassa vādassa jigucchamāno akāmako carāmi brahmacariyaṃ, viññuppasatthañca satañca ṭhānaṃ
evampahaṃ puññakaro bhavāmi.

1418. “Sau khi ra đi vì niềm tin, kẻ nào quay trở lại (cuộc sống thế tục), kẻ ấy tựa như người điếc và câm; người này quả thật là kẻ ngu si! Bởi vì lời nói ấy, trong khi ta chán ghét, không mong muốn (việc tu tập), ta vẫn thực hành Phạm hạnh. Còn có sự ca ngợi của những người hiểu biết và địa vị dành cho những người tốt; dầu là như vậy, ta cũng là người tạo được nghiệp thiện.

5. Xuất thế rồi quay lại cõi trần,
Chắc người ta nghĩ: "Kẻ ngu đần!",
Chính điều này khiến ta lùi bước,
Ta vẫn hành trì đạo Thánh nhân
Tuy vậy ta không còn phát nguyện,
Ta theo Thánh đạo bởi nguyên nhân:
Ðược lời khen ngợi từ người trí,
Là cách người hiền thiện trú thân.

1419. Samaṇe tuvaṃ brāhmaṇe addhike ca santappayāsi annapānena bhikkhaṃ, opānabhūtaṃ ca gharaṃ tavayidaṃ annena pānena upetarūpaṃ, atha kissa vādassa jigucchamāno akāmako dānamimaṃ dadāsi.

1419. Ông đã làm hài lòng các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, và các khách lữ hành về vật thực với cơm ăn và nước uống. Và ngôi nhà này của ông có hình thức như là cái giếng nước đầy đủ cơm ăn và nước uống. Vậy thì, bởi vì lời nói gì mà trong khi ông chán ghét, không mong muốn (việc bố thí), ông vẫn ban phát việc bố thí này?”

6. Nhà bạn đây như thể quán ăn,
Chứa đồ ẩm thực để cung dâng
La-môn, trí giả cùng du khách,
Thỏa mãn cơn khao khát, đói lòng,
Xong sợ điều gì gây tiếng xấu,
Nên lòng miễn cưỡng lại cho không.

1420. Pitaro ca me āsuṃ pitāmahā ca saddhā ahū dānapatī vadaññū taṃ kullavattaṃ anuvattamāno, māhaṃ kule antimagandhino ahuṃ etassa vādassa jigucchamāno akāmako dānamimaṃ dadāsi.

1420. “Cha và ông nội của tôi đã là những người có niềm tin, đã là những người thí chủ rộng lượng. Trong khi tiếp nối truyền thống ấy của gia tộc, chớ để tôi trở thành kẻ hủ bại nhất trong gia tộc! Bởi vì lời nói ấy, trong khi tôi chán ghét, không mong muốn (việc bố thí), tôi vẫn ban phát việc bố thí này.”

7. Giữ gìn Thánh hạnh các cha ông,
Là thí chủ ban phát rộng lòng,
Theo gót xưa, ta đầy cẩn trọng,
Sinh thời đường lối của gia tông,
Sợ mình sẽ biến thành suy thoái,
Nên miễn cưỡng lòng vẫn biếu không.

1421. Dahariṃ kumāriṃ asamatthapaññaṃ yaṃ tānayiṃ ñātikulā sugatte na cāpi me appiyataṃ avedi, aññatra kāmā paricārayantī atha kena vaṇṇena mayā te hoti saṃvāsadhammo ahu evarūpo.

1421. “Hỡi cô nàng có cơ thể xinh xắn, ta đã rước nàng, người thiếu nữ trẻ trung có trí tuệ còn chưa đầy đủ, từ thân quyến gia tộc. Nàng cũng đã không cho biết về tình trạng không yêu mến đối với ta, trong khi nàng hầu hạ ta không có sự mong muốn. Vậy bởi vì lý do gì mà tình trạng sống chung của nàng với ta đã có hình thức như vậy?”

8. Khi còn thiếu nữ trí ngây thơ,
Ta cưới bà về tự nhạc gia,
Bà chẳng bảo lòng ta lãnh đạm
Làm sao bà sống cả đời bà,
Không tình gắn bó, không thương mến,
Bà đã vì đâu ở lại nhà,
Hỡi quí phu nhân đầy yểu điệu,
Sống đời lạnh lẽo thế cùng ta.

1422. Ārā dūre na idha kadāci atthi paramparā nāma kule imasmiṃ taṃ kullavattaṃ anuvattamānā, māhaṃ kule antimagandhinī ahuṃ etassa vādassa jigucchamānā akāmikā baddhacarāsmi tuyhaṃ.

1422. “Từ thời xa xưa, không bao giờ có việc gọi là thay đổi chồng ở gia tộc này. Trong khi tiếp nối truyền thống ấy của gia tộc, chớ để thiếp trở thành kẻ kẻ hủ bại nhất trong gia tộc! Bởi vì lời nói ấy, trong khi thiếp chán ghét, không mong muốn, thiếp vẫn là người làm công việc hầu hạ đối với chàng.

9. Chẳng phải là nề nếp cổ phong,
Cho người làm vợ lại thay chồng,
Chẳng bao giờ thế, nên tôi vẫn,
Giữ thói lề kia, kẻo ngại rằng
Tôi bị người xem là thoái hóa,
Chính niềm lo sợ tiếng đồn hung,
Khiến tôi ở lại và chung sống
Chẳng có tình yêu, vẫn lạnh lùng.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada