1400. Sā tattha vittā sumanā patītā nāvaṃ sucittaṃ abhinimmiṇitvā, ādāya saṅkhaṃ purisena saddhiṃ upānayī nagaraṃ sādhu ramman ”ti.

1400. “Tại nơi ấy, ở giữa biển khơi, vị tiên nữ ấy, với tâm vui vẻ, với thiện ý, được hài lòng, sau khi hóa hiện ra chiếc thuyền được tô màu khéo léo, đã đón rước Saṅkha cùng với người hầu, rồi đã đưa đến thành phố tốt đẹp, đáng yêu.”

10. Thần nữ hân hoan, hạnh phúc tràn,
Làm cho xuất hiện, chiếc thuyền thần,
Ðem San-kha với người hầu cận
Về đến kinh đô đẹp tuyệt trần.

1401. Yo te imaṃ visālakkhiṃ piyaṃ sammillahāsiniṃ, ādāya balā gaccheyya kinnu kayirāsi brāhmaṇa.

1401. “Thưa vị Bà-la-môn, nếu có người dùng võ lực bắt đem đi người phụ nữ có mắt to, đáng yêu, có nụ cười thân thiện của ngài, thì ngài có thể làm gì?”

1. Ví thử người ta bắt quý nương,
Mắt tròn, và cướp khỏi Tôn ông,
Người yêu ngồi đó đang cười nụ,
Ngài sẽ làm gì, hỡi Ðạo nhân?

1402. Uppajja me na mucceyya na me mucceyya jīvato, rajaṃva vipulā vuṭṭhi khippameva nivāraye.

1402. “Nếu nó khởi lên ở tôi thì nó không thể thoát ra, nó không thể thoát ra khỏi tôi chừng nào tôi còn sống. Tựa như cơn mưa lớn dập tắt bụi bặm, tôi có thể chặn đứng nó vô cùng nhanh chóng.”

2. Khi đã khởi lên, nó chẳng rời
Chẳng bao giờ nữa, suốt đời tôi,
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Dập tắt nó thời mới nhú thôi.

1403. Yannu pubbe vikatthittho balamhi va apassito, svājja tuṇhikakodāni saṅghāṭiṃ sibbamacchasi.

1403. “Điều mà ngài đã khoe khoang trước đây, dường như đã được dựa vào sức mạnh. Hôm nay, ngài đây là người im lặng. Giờ này, ngài ngồi may y hai lớp.”

3. Ngài lớn tiếng khoe hay,
Chừng một lát trước đây,
Nay lặng thinh vì giận
Ngài ngồi đó vá may.

1404. Uppajji me na muccittha na me muccittha jīvato, rajaṃva vipulā vuṭṭhi khippameva nivārayiṃ.

1404. “Nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó đã không thoát ra khỏi tôi chừng nào tôi còn sống. Tựa như cơn mưa lớn dập tắt bụi bặm, tôi đã chặn đứng nó vô cùng nhanh chóng.”

4. Hễ lúc nào sinh khởi nó rồi,
Chẳng bao giờ nó chịu rời tôi,
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Tôi dập nó thời mới nhỏ nhoi.

1405. Kinte uppajji no mucci kinte no mucci jīvato, rajaṃva vipulā vuṭṭhi katamaṃ tvaṃ nivārayī.

1405. “Cái gì đã khởi lên ở ngài và đã không thoát ra? Cái gì đã không thoát ra khỏi ngài chừng nào ngài còn sống? Tựa như cơn mưa lớn dập tắt bụi bặm, ngài đã chặn đứng cái gì?”

5. Gì đó mà không thể bỏ ngài,
Chẳng bao giờ hết, suốt trong đời?
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Ngài dập tắt gì lúc nhỏ nhoi?

1406. Yamhi jāte na passati ajāte sādhu passati, so me uppajji no mucci kodho dummedhagocaro.

1406. “Cái nào khi khởi lên thì con người không nhìn thấy, khi không khởi lên thì con người nhìn thấy rõ ràng, cái ấy là sự giận dữ; nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó có đối tượng là những kẻ ngu muội.

6. Con người không nó, thấy minh quang,
Có nó, mù đui trước nẻo đàng,
Nó khởi trong ta không thoát được,
Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.

1407. Yena jātena nandanti amittā dukkhamesino, so me uppajji no mucci kodho dummedhagocaro.

1407. Do cái nào khởi lên mà những kẻ thù, những kẻ tìm kiếm sự khổ đau, được hân hoan, cái ấy là sự giận dữ; nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó có đối tượng là những kẻ ngu muội.

7. Ðiều gì làm thích thú cừu nhân,
Kẻ muốn tâm ta phải khổ buồn,
Phát khởi trong ta không thoát được,
Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.

1408. Yasmiñca jayamānasmiṃ sadatthaṃ nāvabujjhati, so me uppajji no mucci kodho dummedhagocaro.

1408. Và khi cái nào đang được khởi lên khiến con người không còn nhận biết việc có sự lợi ích, cái ấy là sự giận dữ; nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó có đối tượng là những kẻ ngu muội.

8. Cái điều, nếu nổi dậy trong mình.
Che khuất người ta trước hạnh lành,
Ðã phát trong ta không thoát được,
Căm hờn, nuôi dưỡng bởi vô minh.

1409. Yenābhibhūto kusalaṃ jahāti parakkare vipulañcāpi atthaṃ, sa bhīmaseno balavā pamaddī kodho mahārāja na me amuccatha.

1409. Bị chế ngự bởi cái nào, con người từ bỏ việc thiện, và còn bỏ bê việc lợi ích lớn lao, cái ấy có đạo quân ghê rợn, là kẻ hủy diệt có sức mạnh, là sự giận dữ, tâu đại vương, nó đã không thoát ra khỏi tôi.

9. Ðiều làm tổn phước đức vô song,
Khiến kẻ bị lừa bỏ lập công,
Mãnh liệt, phá tan, đầy khủng khiếp,
Không rời ta nữa, ấy là sân.

1410. Kaṭṭhasmiṃ matthamānasmiṃ pāvako nāma jāyati, tameva kaṭṭhaṃ ḍahati yasmā so jāyate gini.

1410. Khi thanh gỗ đang được cọ xát thì có cái gọi là lửa sanh ra. Chính cái ấy đốt cháy thanh gỗ, từ đó, nó sanh ra ngọn lửa.

10. Ngọn lửa lên cao, sẽ lớn hơn,
Nếu mỗi nhiên liệu được khơi tròn,
Bởi vì ngọn lửa lên cao mãi,
Nhiên liệu tự mình phải cháy luôn.

1411. Evaṃ mandassa posassa bālassa avijānato, sārambhā jāyate kodho sopi teneva ḍayhati.

1411. Tương tự như vậy, sự giận dữ khởi lên từ sự nóng nảy của kẻ đần độn, ngu dốt, không nhận thức, kẻ ngu dốt ấy cũng bị đốt nóng bởi chính sự giận dữ.

11. Cũng vậy trong tâm trí kẻ đần,
Người không có thể nhận chân ra rằng
Phát sinh phẫn nộ từ tranh cãi
Bởi vậy thanh danh phải bại tàn.

1412. Aggīva tiṇakaṭṭhasmiṃ kodho yassa pavaḍḍhati, nihīyati tassa yaso kāḷapakkheva candimā.

1412. Ví như ngọn lửa gia tăng ở cỏ và củi, kẻ nào có sự giận dữ gia tăng, thì danh tiếng của kẻ ấy bị sút giảm, tựa như mặt trăng thuộc hạ huyền bị khuyết dần.

12. Phẫn nộ nào tăng tựa lửa hừng
Với mồi than củi cháy bừng bừng,
Như trăng nửa tháng đêm trời tối,
Ðức hạnh tiêu hao, hủy hoại dần.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada