1390. Gavaṃ sahassaṃ usabhañca nāgaṃ ājaññayutte ca rathe dasa ime, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te gāmavarāni soḷasā ”ti.

1390. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, ta ban cho ngài một ngàn bò cái, một bò mộng, một con voi, mười cỗ xe kéo này đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng, và mười sáu ngôi làng cao quý.”

10. Một ngàn bò cái, trẫm truyền ban,
Một thớt voi, bò đực một chàng,
Mười cỗ xe và đàn ngựa quý,
Thêm mười sáu đệ nhất thôn làng,
Bởi vì trẫm thật đầy hoan hỷ,
Cách giải vấn đề của Trí nhân!

1391. Bahussuto sutadhammosi saṅkha diṭṭhā tayā samaṇabrāhmaṇā ca, athakkhaṇe dassayase vilāpaṃ añño nu ko te paṭimantako mayā.

1391. “Thưa chủ nhân Saṅkha, tôn ông có kiến thức rộng, đã được nghe Giáo Pháp. Tôn ông đã diện kiến các vị Sa-môn và Bà-la-môn. Giờ không phải là lúc tôn ông thể hiện sự mê sảng. Phải chăng có người nào khác đang chuyện trò với tôn ông, ngoài tôi ra?”

1. La-môn Tôn giả, bậc uyên thâm,
Tôn giả vốn đầy đủ thánh tâm,
Ðồ đệ Thánh sư, sao lại phải
Hoài tâm vô cớ nói lầm bầm,
Trong khi chẳng có ai đây cả
Ðối đáp ngoài tôi, lúc luận đàm?

1392. Subbhū subhā suppaṭimuttakambu paggayha sovaṇṇamayāya pātiyā, bhuñjassu bhattaṃ iti maṃ vadeti saddhā cittā tamahaṃ noti brūmi.

1392. “Có nàng tiên nữ với khuôn mặt xinh đẹp, với dáng vẻ thanh tú, khéo phục sức với đồ trang điểm bằng vàng, đã trao ra cái đĩa làm bằng vàng rồi nói với ta bằng niềm tin và tâm hoan hỷ rằng: ‘Ông hãy thọ dụng bữa ăn.’ Ta đã trả lời ‘không’ với nàng ấy.”

2. Xuất hiện Thiên thần rực ánh quang,
Tặng ta tiên phạn để ta ăn,
Cao sang trên đĩa vàng bày sẵn
Ta đáp nàng "không" dạ lạc hoan.

1393. Etādisaṃ brāhmaṇa disva yakkhaṃ puccheyya poso sukhamāsasāno, uṭṭhehi taṃ pañjalikāhi puccha devī nusi tvaṃ uda mānusī nu.

1393. “Thưa vị Bà-la-môn, sau khi nhìn thấy hạng Dạ-xoa như thế ấy, con người đang mong mỏi hạnh phúc có thể yêu cầu. Tôn ông nên đứng lên, chắp tay lại, và hỏi vị ấy rằng: ‘Vậy nàng là nữ thần hay là nữ nhân loại?’”

3. Nếu như người thấy một Thiên thần,
Người hãy yêu cầu một đặc ân
Xin đứng chấp tay van vị ấy,
Cho hay Thiên nữ hoặc phàm nhân?

1394. Yaṃ tvaṃ sukhenābhisamekkhase maṃ bhuñjassu bhattaṃ iti maṃ vadesi, pucchāmi taṃ nāri mahānubhāve devī nusi tvaṃ uda mānusī nu.

1394. “Thưa vị nữ nhân có đại năng lực, bởi vì nàng quan sát tôi với vẻ cảm thông và nói với tôi rằng: ‘Ông hãy thọ dụng bữa ăn.’ Vì thế, tôi xin hỏi nàng rằng: ‘Vậy nàng là nữ thần hay là nữ nhân loại?’”

4. Nương tử nhìn ta vẻ thiết thân,
Bảo ta: "Cần lấy thức này ăn",
Hỏi nàng cao cả đầy uy lực,
Là nữ nhi hay một nữ thần?

1395. Devī ahaṃ saṅkha mahānubhāvā idhāgatā sāgaravārimajjhe, anukampikā no ca paduṭṭhacittā tameva atthāya idhāgatosmi.

1395. “Này Saṅkha, thiếp là nữ thần có đại năng lực. Thiếp đã đi đến nơi này từ giữa làn nước của đại dương. Là người có lòng thương xót và không có tâm ý xấu xa, thiếp đã đi đến nơi này vì lợi ích của chính ông.

5. Ta, nữ thần uy lực đại cường,
Nơi này vội đến giữa trùng dương,
Tràn đầy từ mẫn, tâm hoan hỷ,
Vì cứu ngài trong bước cuối đường.

1396. Idhannapānaṃ sayanāsanañca yānāni nānā vividhāni saṅkha, sabbassa tyāhaṃ paṭipādayāmi yaṃ kiñci tuyhaṃ manasābhipatthitaṃ.

1396. Này Saṅkha, cơm ăn nước uống, và chỗ nằm ngồi ở nơi này, các phương tiện di chuyển đủ các loại khác nhau, thiếp cung cấp cho ông tất cả, bất cứ điều gì được ông ước nguyện đều là của ông.”

6. Nhìn đây thực phẩm, chốn an lành,
Nhiều loại cỗ xe, đủ dáng hình,
Cho ngài làm chủ quyền tất cả,
Những gì ao ước tự tìm mình.

1397. Yaṃ kiñci yiṭṭhaṃva hutaṃ va mayhaṃ sabbassa no issarā tvaṃ sugatte, sussoṇi subbhū suvilākamajjhe kissa me kammassa ayaṃ vipāko.

1397. “Thưa vị nữ thần có cơ thể xinh xắn, bất cứ vật dâng hiến hay vật cúng tế nào của tôi, nàng là chúa tể của tất cả thiện nghiệp ấy của chúng tôi. Thưa vị nữ thần có cặp mông xinh, có lông mày khéo, có eo thon đẹp, nghiệp nào của tôi mà có được quả thành tựu này?”

7. Thưa, vậy tiên nương chính nữ hoàng,
Nắm quyền bao lễ vật nàng ban,
Mỹ nương yểu điệu, mày thanh tú,
Nghiệp quả nào ta tạo đấy chăng?

1398. Ghamme pathe brāhmaṇa ekabhikkhuṃ ugghaṭṭapādaṃ tasitaṃ kilantaṃ, paṭipādayī saṅkha upāhanāhi sā dakkhiṇā kāmaduhā tavajja.

1398. “Này Bà-la-môn, ông đã trao tặng đôi dép đến vị tỳ khưu bị khát nước, đang mệt nhọc, có bàn chân bị tổn thương ở trên con đường vào mùa nóng. Này Saṅkha, việc cúng dường ấy là nguồn ban phát các điều mong muốn của ông ngày hôm nay.”

8. Trên đường nóng bỏng kẻ đơn thân,
Khát nước, mệt nhừ, lại nhức chân,
Ngài đã dừng, mang tài vật cúng,
Ngày nay lễ ấy được hồng ân.

1399. Sā hotu nāvā phalakūpapannā anavassutā erakavātayuttā, aññassa yānassa na hettha bhūmi ajjeva maṃ moliniṃ pāpayassu.

1399. “Hãy hiện ra chiếc thuyền được tạo thành bởi những tấm ván gỗ, không bị thấm nước, được bám chặt vào làn gió bởi cánh buồm, bởi vì ở nơi đây không là vùng đất cho phương tiện di chuyển nào khác. Hãy giúp cho tôi đến được thành phố Molinī nội trong ngày hôm nay.”

9. Xin chiếc thuyền bằng ván khéo xây,
Thuận buồm xuôi gió, chạy như bay,
Mà không thấm nước trên đường biển
Không thể dùng xe cộ chốn đây,
Xin chở ta về Mo-lí gấp,
Làm sao vừa kịp đúng hôm nay.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada