1376. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, na mano vā sarīraṃ vā maṅkate sakka kassaci, kadāci upahaññetha etaṃ sakka varaṃ vare ”ti.

1376. “Thưa Thiên Chủ Sakka, thưa vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ, thưa Thiên Chủ Sakka, không do tôi là nguyên nhân làm cho ý nghĩ hoặc cơ thể (thân và khẩu) của bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào, có thể bị tổn thương. Thưa Sakka, điều này là sự ước muốn về điều ân huệ.”

13. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
Ngài bảo cho ta một đặc ân,
Xin chẳng sinh linh nào bị hại,
Vì ta, dù khẩu, ý hay thân.
Nơi nào cũng vậy, này Thiên chủ,
Lời nguyện này ta vẫn ước mong.

1377. Yo kopaneyye na karoti kopaṃ na kujjhati sappuriso kadāci, kuddhopi yo nāvikaroti kopaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

1377. “Người nào là bậc thiện nhân, không bực tức với người đáng bị bực tức, không bị nổi giận vào bất cứ lúc nào, là người thậm chí bị nổi giận mà không bày tỏ sự bực tức, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”

1. Thiện nhân không cảm thấy hờn căm,
Đối với một ai đáng hận sân,
Không để nội tâm sân khởi dậy,
Vị nào dù lúc giận trong lòng,
Cũng không để lộ cho người thấy,
Người gọi đó là thanh tịnh nhân.

1378. Ūnodaro yo sahate jighacchaṃ danto tapassī mitapānabhojano, āhārahetu na karoti pāpaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

1378. “Người nào chịu đựng cái đói, có bao tử lưng lửng, là người đã được rèn luyện, có sự khổ hạnh, có thức ăn nước uống bị hạn chế, là người không làm việc ác vì nguyên nhân vật thực, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.

2. Người chịu đói, bụng đau rần,
Ẩn sĩ tự điều phục món ăn,
Không phạm ác hành vì thực phẩm,
Vị này, người gọi bậc Sa-môn.

1379. Khiḍḍaṃ ratiṃ vippajahitva sabbaṃ na cālikaṃ bhāsati kiñci loke, vibhūsanaṭṭhānā virato methunasmā taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

1379. “Sau khi buông bỏ tất cả việc đùa giỡn và lạc thú, là người không nói sai trái về bất cứ điều gì ở thế gian, là người đã lánh xa việc trang điểm, đã lánh xa việc đôi lứa, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”

3. Sau khi bỏ mọi thứ vui chơi,
Không nói lời gian dối giữa đời,
Vị ấy ghét xa hoa, nhục dục,
Như vầy người gọi Sa-môn rồi.

1380. Pariggahaṃ lobhadhammañca sabbaṃ yo ve pariññāya paribbajeti, dantaṃ ṭhitattaṃ amamaṃ nirāsaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

1380. “Thật vậy, người nào, sau khi hiểu biết toàn diện, hoàn toàn từ bỏ tất cả vật sở hữu và pháp tham lam, là người đã được rèn luyện, có bản tánh ổn định, không chấp là của ta, không có sự dính mắc, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”

4. Bậc toàn trí bỏ hết hoàn toàn,
Mọi sở hữu và mọi dục tham,
Tự chế, kiên tâm, vô ngã chấp,
Vị này người gọi bậc Sa-môn.

1381. Pucchāma kattāraṃ anomapaññaṃ gāthāsu no viggaho atthi jāto, chindajja kaṅkhaṃ vicikicchitāni tayajja kaṅkhaṃ vitaremu sabbe.

1381. “Chúng tôi hỏi vị phân xử, vị có trí tuệ không thiếu sót. Có sự cãi vã đã sanh khởi giữa chúng tôi về các kệ ngôn. Hôm nay, ngài hãy chặt đứt sự nghi hoặc và các hoài nghi. Hôm nay, nhờ ngài tất cả chúng tôi có thể dẹp bỏ sự nghi hoặc.”

5. Xin hỏi đại thần thượng trí minh,
Trong khi đàm đạo, khởi phân tranh,
Nhờ khanh xét, giải nghi nan ấy,
Hội chúng thoát nghi hoặc bởi khanh!

1382. Ye paṇḍitā atthadassā bhavanti bhāsanti te yoniso tattha kāle, kathaṃ nu gāthānaṃ abhāsitānaṃ atthaṃ nayeyyuṃ kusalā janinda.

1382. “Các vị nào là các bậc sáng suốt, có khả năng nhìn thấy ý nghĩa, các vị ấy nói đúng đường lối theo thời điểm của sự việc. Tâu vị chúa của loài người, làm thế nào các bậc thiện xảo có thể nắm được ý nghĩa của các kệ ngôn còn chưa được nói ra?

6. Bậc trí biết chân tướng việc đời,
Nói năng khôn khéo, đúng theo thời,
Nhưng dù hiền trí, làm sao biết,
Ý nghĩa kệ chưa nói với tôi?

1383. Kathaṃ have bhāsati nāgarājā kathaṃ pana garuḷo venateyyo, gandhabbarājā pana kiṃ vadeti kathaṃ pana kurunaṃ rājaseṭṭho.

1383. Thật vậy, vị Chúa của loài rồng nói thế nào? Rồi Kim-sỉ-điểu Venateyya nói thế nào? Thêm nữa, vị Vua của các Càn-thát-bà nói gì? Hơn nữa, đức vua tối cao của xứ Kuru nói thế nào?”

Vương tử Vi-na, Kim sí điểu,
Long vương ấy nói thế nào rồi?
Thác- bà vương, tối cao Hoàng thượng,
Của xứ Câu-lâu, hãy mở lời!

1384. Khantiṃ have bhāsati nāgarājā appāhāraṃ garuḷo venateyyo gandhabbarājā rativippahānaṃ akiñcanaṃ kurunaṃ rājaseṭṭho ’ti.

1384. “Đúng vậy, vị Chúa của loài rồng nói về sự nhẫn nại. Kim-sỉ-điểu Venateyya nói về không đánh đập. Vị Vua của các Càn-thát-bà nói về sự buông bỏ lạc thú. Đức vua tối cao của xứ Kuru nói về vô sở hữu.”

7. Kham nhẫn, Long vương thuyết giảng xong,
Vương tử Vi-na, Sí điểu vương,
Lại thuyết giảng về lòng tốt đẹp,
Thác-bà vương thuyết đoạn trừ tham,
Câu lâu Chúa thượng ly triền cái,
Để đạt đến công hạnh vẹn toàn.

1385. Sabbāni etāni subhāsitāni na hettha dubbhāsitamatthi kiñci, yasmiñca etāni patiṭṭhitāni arāva nābhyā susamohitāni, catubbhi dhammehi samaṅgibhūtaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.

1385. “Tất cả các điều ấy đã được khéo nói, bởi vì ở đây không có một điều nào đã được vụng nói. Và các điều ấy được thiết lập ở người nào, tựa như các cây căm khéo được gắn vào trục bánh xe, người nào được đầy đủ bốn pháp, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”

8. Tất cả lời này chánh đáng thay,
Không gì sai trái ở nơi này,
Người nào thích hợp lời như thế,
Giống các tăm xe ở trục quay,
Người được gọi Sa-môn chánh hạnh,
Đủ đầy các đức tính trên đây.

1386. Tuvaṃ nu seṭṭho tvamanuttarosi tvaṃ dhammagū dhammavidū sumedho, paññāya pañhaṃ samadhiggahetvā acchecchi dhīro vicikicchitāni, acchecchi kaṅkhaṃ vivikicchitāni cundo yathā nāgadantaṃ kharena.

1386. “Ngài là hạng nhất, ngài là người không ai hơn được, ngài là vị đã đạt đến pháp, là vị hiểu rõ pháp, là bậc thiện trí. Sau khi nắm vững câu hỏi bằng trí tuệ, bậc sáng trí đã chặt đứt các hoài nghi, đã chặt đứt sự nghi hoặc và các hoài nghi, giống như người thợ ngà voi đã cắt đứt ngà voi bằng cây cưa.

9. Khanh là bậc tối thắng, vô song,
Hộ pháp, tinh thông luật, trí nhân,
Khi hiểu vấn đề nhờ trí tuệ,
Với tài khéo cắt mọi nghi nan,
Giống như người thợ ngà voi nọ,
Cắt với lưỡi cưa thật dễ dàng!

1387. Nīluppalābhaṃ vimalaṃ anagghaṃ vatthaṃ imaṃ dhūmasamānavaṇṇaṃ, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.

1387. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, này vị sáng trí, ta ban cho ngài tấm vải này, có màu sắc như là làn khói, có sự rực rỡ như đóa sen xanh, không có vết bẩn, vô giá, để cúng dường pháp.

1388. Suvaṇṇamālaṃ satapattaphullaṃ sakesaraṃ ratana sahassamaṇḍitaṃ, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.

1388. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, này vị sáng trí, ta ban cho ngài bông hoa bằng vàng, nở rộ với một trăm cánh hoa, có tua nhụy, được điểm tô với một ngàn viên ngọc, để cúng dường pháp.

1389. Maṇiṃ anagghaṃ ruciraṃ pabhassaraṃ kaṇṭhāvasattaṃ maṇibhūsitaṃ me, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.

1389. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, này vị sáng trí, ta ban cho ngài viên ngọc ma-ni vô giá, làm thích ý, rực rỡ, được gắn liền ở cổ, được trang điểm với viên ngọc ma-ni, vật sở hữu của ta, để cúng dường pháp.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada