1355. Catudvāramidaṃ nagaraṃ āyasaṃ daḷhapākāraṃ, oruddha patiruddhosmi kiṃ pāpaṃ pakataṃ mayā.

1355. “Thành này làm bẳng sắt, có bốn cánh cửa, có tường thành vững chắc. Tôi đã bị giam cầm, bị ngăn chận; điều ác gì đã được tạo ra bởi tôi?”

1. Thành sắt này xây bốn cổng cao,
Con nay mắc bẫy bước chân vào,
Chung quanh con, lũy hào bao bọc,
Con đã gây nên các nghiệp nào.

1356. Sabbe apihitā dvārā oruddhosmi yathā dvijo, kimādhikaraṇaṃ yakkha cakkābhinihato ahaṃ.

1356. Tất cả các cánh cửa đã được đóng lại. Tôi bị giam cầm giống như con chim (ở trong lồng). Thưa Dạ-xoa, lý do gì mà tôi bị hành hạ bởi bánh xe?”

2. Giờ đây đóng chặt các thành môn
Và bánh xe này hủy diệt con
Nào khác chim lồng, con bị bắt.
Tại vì sao vậy, tấu Thiên vương?

1357. Laddhā satasahassāni atirekāni vīsati, anukampakānaṃ ñātīnaṃ vacanaṃ samma nākari.

1357. “Này cậu trai, sau khi đã đạt được nhiều hơn hai triệu đồng tiền, gã ấy đã không làm theo lời nói của các thân quyến, của những người thương xót (đến gã).

3. Ngài có ngày xưa chục vạn đồng,
Hai mươi lần nữa đấy, tôn ông,
Tuy nhiên ngài vẫn không hề muốn
Tai lắng nghe bằng hữu nói năng.

1358. Laṅghiṃ samuddaṃ pakkhandi sāgaraṃ appasiddhikaṃ catubbhi aṭṭhajjhagamā aṭṭhāhipi soḷasa, soḷasāhi ca battiṃsā atricchaṃ cakkamāsado icchāhatassa posassa cakkaṃ bhamati matthake.

1358. Gã đã lao vào biển cả có sóng nhồi, vào đại dương có ít điều may mắn. Với bốn (nữ nhân), gã đã đi đến tám, và cũng với tám rồi mười sáu, và với mười sáu rồi ba mươi hai (nữ nhân), trong khi ước muốn quá lố, gã nhận lấy bánh xe. Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ bởi ước muốn.

4. Ngài đã vội vàng vượt đại dương
Chất đầy nguy hiểm dọc đường trường,
Nữ ma, bốn tám, ngài thăm viếng,
Mười sáu nàng, theo kế tám nàng.

1359. Upari visālā duppūrā icchā visaṭagāminī, ye ca taṃ anugijhanti te honti cakkadhārino.

1359. Các ước muốn quá to lớn là khó được làm cho đầy đủ, chúng có khuynh hướng lan tỏa rộng ra. Những kẻ nào thèm muốn điều ấy, những kẻ ấy trở thành những người mang bánh xe (ở trên đầu).

5. Tiếp theo mười sáu, đến ba hai
Tận hưởng dục tham cứ miệt mài,
Nay hãy nhìn đây đầy phần tặng thưởng
Bánh xe dục lạc ở đầu ngài.

1360. Bahuṃ bhaṇḍaṃ apahāya maggaṃ appaṭivekkhiya, yesaṃ cetaṃ asaṅkhātaṃ te honti cakkadhārino.

1360. Sau khi đã buông bỏ nhiều của cải, sau khi đã không xem xét lộ trình, những kẻ nào đã không chuẩn bị việc ấy, những kẻ ấy trở thành những người mang bánh xe (ở trên đầu).

6. Ai đi đại lộ dục tham đầy,
Con lộ thênh thang rộng lớn thay,
Vô độ, chúng không hề thỏa mãn
Thì phần chúng đội bánh xe này.

1361. Kammaṃ samekkhe vipulañca bhogaṃ icchā naṃ seveyya anatthasaṃhitaṃ, kareyya vākyaṃ anukampakānaṃ taṃ tādisaṃ nātivatteyya cakkaṃ.

1361. Nên xem xét hành động và của cải dồi dào (của bản thân), không nên phụng sự ước muốn không liên hệ đến mục đích, nên làm theo lời nói của những người thương xót (đến mình), bánh xe sẽ không khống chế người như thế ấy.”

7. Ai chẳng mong phân phát bạc vàng,
Chẳng cầu tìm Chánh đạo bình an
Cũng không biết phải làm như vậy,
Phần bánh xe này chúng sẽ mang.

8. Hãy suy kết quả việc ngài làm
Gia sản ngài xem thật ngập tràn,
Ðừng ước làm tài chủ bất chính,
Thực hành điều bạn tốt khuyên răn,
Về sau chẳng có bao giờ nữa
Vòng bánh xe này đụng đến thân.

1362. Kīva ciraṃ nu me yakkha cakkaṃ sirasi ṭhassati, kati vassasahassāni taṃ me akkhāhi pucchito.

1362. “Thưa Dạ-xoa, vậy thì bánh xe sẽ ngự trên đầu của tôi bao lâu nữa? Bao nhiêu ngàn năm? Được hỏi, xin ngài hãy giải thích điều ấy cho tôi.”

9. Vậy tấu Thiên vương, đến lúc nào
Bánh xe này dính ở trên đầu?
Mấy ngàn năm nữa? XIn ngài dạy,
Ðừng để con hoài sức khẩn cầu.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada