1233. Yadā sāmuddikaṃ nāvaṃ sayantaṃ savaṭākaraṃ, ceṭo ādāya gaccheyya atha nūna tadā siyā ”ti.

1233. Khi nào đứa trẻ trai có thể điều khiển chiếc tàu vượt biển có đủ máy móc và dây thừng, rồi khởi hành, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.

11. Khi chàng trai nhẹ đẩy đưa
Chiếc thuyền buồm vượt biển xa ngàn trùng
Với lòng can đảm anh hùng,
Ðiều này chắc hẳn mới mong, hỡi nàng!

1234. Khamanīyaṃ yāpanīyaṃ kacci mātula te sukhaṃ, sukhaṃ te ammā avaca sukhakāmā hi te mayaṃ.  

1234. “Thưa cậu Báo, cậu có khỏe không, có thoải mái không, có được an vui không? Mẹ đã hỏi về sự an vui của cậu, bởi vì chúng cháu có sự mong mỏi về sự an vui của cậu.”

1. Bác ơi, bác có được khang an,
Và bác lâu nay mạnh khỏe chăng?
Mẹ cháu nhắn đưa lời kính hỏi,
Cháu mong cùng bác kết thân bằng!

1235.Naṅguṭṭhaṃ me avakkamma heṭhayitvāna eḷike, sājja mātulavādena muñcitabbā nu maññasi.  

1235. “Này cô dê, cô đã đạp lên cái đuôi của ta và gây thương tích. Hôm nay, với tiếng thưa cậu, cô đây nghĩ rằng cô có thể được tự do chăng?”

2. Cô dẫm đuôi ta đấy, bé Dê,
Và làm ta phải bị đau ghê,
Tưởng rằng nhờ gọi ta là "bác"
Cô được tự do để trở về!

1236. Puratthāmukho nisinnosi ahaṃ taṃ mukhamāgatā, pacchito tuyha naṅguṭṭhaṃ kathaṃ khohaṃ avakkamiṃ.  

1236. “Cậu ngồi với mặt nhìn về hướng đông, còn cháu đã đi đến trước mặt của cậu. làm sao cháu đã đạp lên cái đuôi của cậu ở phía sau?”

3. Tôi đi phía trước mặt, thưa ngài,
Ngài vẫn ngồi kia đối diện tôi,
Ðuôi của ngài nằm sau phía ấy,
Làm sao tôi lại dẫm lên đuôi?

1237. Yāvatā caturo dīpā sasamuddā sapabbatā, tāvatā mayha naṅguṭṭhaṃ kathaṃ kho tvaṃ vivajjayi.

1237. “Cái đuôi của ta bao trùm đến hết cả bốn hòn đảo với các biển cả, với các ngọn núi, làm sao cô đã tránh né cái đuôi của ta?”

4. Suốt cả trong toàn bốn đại châu,
Với sông hồ biển núi non cao,
Ðuôi ta trải rộng ra cùng khắp,
Sao cẳng Dê không dẫm nó nào?

1238. Pubbevametaṃ akkhaṃsu mātāpitā ca bhātaro, dīghaṃ duṭṭhassa naṅguṭṭhaṃ samhi vehāsayāgatā.

1238. “Mẹ, cha, và anh em trai đã nói điều ấy cho cháu ngay trước đây. Cái đuôi của kẻ xấu là dài, nên cháu đây đã đi đến từ không trung.”

5. Ta biết đuôi ông ác thật dài,
Vì ta đã được báo tin rồi,
Anh em cha mẹ đều khuyên bảo
Lúc trước ta bay bổng giữa trời!

1239. Tañca disvāna āyantiṃ antalikkhasmiṃ eḷike, migasaṅgho palāyittha bhakkho me nāsito tayā.  

1239. “Này cô dê, sau khi nhìn thấy cô đang đi đến ở trên hư không, bầy nai đã chạy trốn; thức ăn của ta bị tiêu mất bởi vì cô.”

6. Bóng dáng cô Dê ở giữa trời
Bay qua không khí ấy mà thôi,
Ðã làm kinh sợ đàn nai nọ,
Vì thế mồi ta bị hỏng rồi!

1240. Icceva vilapantiyā eḷikiyā ruhaṃghaso, galakaṃ anvāvamaddi natthi duṭṭhe subhāsitaṃ.  

1240. “Trong khi con dê cái đang than vãn như thế ấy, con báo đã cắn đứt cái cổ của nó; không có lời nói tốt ở kẻ xấu.

7. Chính Dê kêu lớn để cầu ân,
Song máu thịt kia mới thoả lòng,
Dã thú chụp Dê vào cổ họng;
Ác nhân không tỏ chút ân cần.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada