1214. Sukhakāme dukkhāpetvā āpannosmi padaṃ imaṃ, so sukhaṃ nādhigacchāmi cito bhānumatāmivā ”ti.
1214. Sau khi gây khổ não cho mình ở sự mong mỏi hạnh phúc, tôi đã bị rơi vào trạng thái này. Tựa như bị vây quay bởi ngọn lửa, tôi đây không đạt đến hạnh phúc.”
9. Nay tôi phải sống cảnh này
Vì tôi tạo khổ não thay vui mừng.
Quanh tôi như đám lửa bừng,
Tôi không cảm thấy trong lòng hân hoan.
1215. Ādittasmiṃ agārasmiṃ yaṃ nīharati bhājanaṃ, taṃ tassa hoti atthāya no ca yaṃ tattha ḍayhati.
1215. “Khi ngôi nhà bị cháy rực, gia chủ mang ra vật dụng nào bởi vì vật ấy là có lợi ích cho người ấy, và không phải là vật bị đốt cháy ở tại nơi ấy.
1. Thứ gì ta cứu thoát ra
Lửa đang đốt cháy nhà ta rụi dần,
Những gì sót lại sau cùng
Sẽ còn đó mãi riêng phần ta thôi.
1216. Evamādipito loko jarāya maraṇena ca, nīharetheva dānena dinnaṃ hoti sunīhataṃ.
1216. Tương tự như vậy, thế gian là bị đốt cháy bởi sự già và sự chết. Bệ hạ hãy nên mang ra (cứu vớt bản thân) nhờ vào sự bố thí; cái gì đã được bố thí là đã được mang ra tốt đẹp.”
2. Thế gian bừng cháy khắp nơi
Sanh, già, bệnh, chết làm mồi lửa nhanh,
Cứu mình bằng các thiện hành,
Cúng dường bố thí để dành thật chân.
1217. Yo dhammaladdhassa dadāti dānaṃ uṭṭhānaviriyādhigatassa jantuno, atikkamma so vetaraṇiṃ yamassa dibbāni ṭhānāni upeti macco.
1217. “Người nào dâng cúng vật thí đến bậc đã đạt được giáo pháp, đến con người đã đạt đến sự nỗ lực và tinh tấn, người ấy, sau khi vượt qua dòng sông Vetaraṇī của thần chết, là người đạt được các vị thế ở cõi Trời.”
3. Người nào bố thí chánh nhân
Kiên cường dõng lực, tinh cần tịnh tâm,
Vượt dòng nước lũ Ma vương,
Ðạt nơi an trú kim đường cõi thiên.
1218. Dānañca yuddhañca samānamāhu appāpi santā bahuke jinanti, appampi ce saddahāno dadāti teneva so hoti sukhī parattha.
1218. “Sự bố thí và chiến đấu là tương tự nhau, dầu là ít người cũng thắng được nhiều người, nếu người bố thí dầu là ít, nhưng có niềm tin, chính vì thế, người ấy có sự an lạc về sau này.”
4. Thiện hành nào khác trận tiền
Trước vài địch thủ, chạy liền ba quân.
Cúng dường với cả tín tâm
Ðời sau hưởng lạc là phần ngài thôi.
1219. Viceyyadānaṃ sugatappasatthaṃ ye dakkhiṇeyyā idha jīvaloke, etesu dinnāni mahapphalāni bījāni vuttāni yathā sukhette.
1219. “Sự bố thí có suy xét đã được bậc Thiện Thệ ca tụng, các vị nào là xứng đáng cúng dường ở đây, ở thế gian của sự sống, những vật được bố thí ở các vị này là có những quả báu lớn lao, giống như các hạt giống đã được gieo ở thửa ruộng phì nhiêu.”
5. Người cho làm đẹp ý trời,
Khôn ngoan xứng đáng làm vơi nhọc nhằn
Cúng dường mang quả hưng long,
Cũng như hạt giống gieo vùng phì nhiêu.
1220. Yo pāṇabhūtāni aheṭhayaṃ caraṃ parūpavādā na karoti pāpaṃ, bhīruṃ pasaṃsanti na hi tattha sūraṃ bhayā hi santo na karonti pāpaṃ.
1220. “Người nào sống không gây tổn hại các chúng sanh có mạng sống, người ấy do (sợ hãi) sự phỉ báng của người khác mà không làm điều ác. Trong trường hợp ấy, các bậc trí ca ngợi sự khiếp sợ, nhưng không ca ngợi sự anh hùng, bởi vì do sự sợ hãi mà những người tốt không làm điều ác.”
6. Ai không hề nói lắm điều,
Tránh làm ác nghiệp hại nhiều chúng sinh,
Người đời gọi yếu, chê khinh,
Chính vì sợ hãi giữ mình thanh lương.
1221. Hīnena brahmacariyena khattiyaṃ upapajjati, majjhimena ca devattaṃ uttamena visujjhati.
1221. “Với Phạm hạnh bậc thấp thì được sanh vào dòng dõi Sát- đế- lỵ, với bậc trung thì trạng thái chư Thiên, với bậc tối thượng thì được thanh tịnh.”
7. Tạo nên phước nghiệp thông thường
Tái sinh nhân thế, quân vương oai quyền.
Phước nhiều đạt đến cõi thiên,
Công năng tối thượng đắc miền Tịnh Cư.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada