1205. Tasmāhi chandāgamanaṃ nappasaṃsanti paṇḍitā, aduṭṭhacitto bhāseyya giraṃ saccupasaṃhitan ”ti. 

1205. Chính vì thế, các bậc sáng suốt không khen ngợi việc đi theo sự mong muốn. Người không có tâm xấu xa nên nói lời nói liên hệ đến sự thật.”

15. Vậy trí nhân không thể tán đồng
Dục tham xuất hiện ở trong lòng,
Người nào ly dục, tâm thanh tịnh,
Lời nói sẽ luôn giữ vững vàng.

1206. Yo indriyānaṃ kāmena vasā nārada gacchati, so pariccajjubho loke jīvantova visussati.

1206. “Này Nārada, kẻ nào đi theo quyền lực của các giác quan vì dục vọng, sau khi lìa bỏ hai thế giới người trời, kẻ ấy bị héo hon, và ngay cả trong khi đang sống.

1. Người nào tuân lệnh dục tham,
Mất hai thế giới, đời tàn về sau.

1207. Sukhassānantaraṃ dukkhaṃ dukkhassānantaraṃ sukhaṃ, sosi patto sukhā dukkhaṃ pāṭikaṅkha varaṃ sukhaṃ.

1207. Khổ đau tiếp theo sau hạnh phúc, hạnh phúc tiếp theo sau khổ đau. Ngươi đây đã đạt được khổ đau từ hạnh phúc, vậy ngươi hãy mong mỏi hạnh phúc cao quý.

2. Hân hoan cùng với khổ đau
Vẫn thường dẫm bước lên nhau chẳng ngừng,
Con từng thấy chúng chuyển luân,
Hãy tìm hạnh phúc thật chân nhiệm mầu.

1208. Kicchakāle kicchasaho yo kicchaṃ nānuvattati, sa kicchantaṃ sukhaṃ dhīro yogaṃ samadhigacchati.

1208. Vào thời điểm khó khăn, người nào có sự chịu đựng khó khăn, không buông xuôi theo sự khó khăn, vị sáng suốt ấy đạt đến sự rèn luyện, sự chấm dứt khó khăn, sự hạnh phúc.

3. Người nào kham nhẫn đối đầu
Gian lao nhiếp phục khổ sầu bao phen,
Là người vững mạnh tiến lên
Niết-bàn, cực lạc, dứt phiền não xưa.

1209. Na heva kāmāna kāmā nānatthā natthakāraṇā, na katañca niraṅkatvā dhammā cavitumarahasi.

1209. Không phải vì mong muốn các dục, không phải vì không có lợi ích, không phải có lợi ích là nguyên nhân, ngươi không thể nào buông lơi giáo pháp và lơ là việc đã thực hành (tham thiền).

4. Con đừng phá hủy tiêu ma
Quãng đời Thanh hạnh, sa đà công năng,
Chỉ vì dục vọng tham sân
Cầu mong lợi dưỡng, đau buồn nhỏ, to.

1210. Dukkhaṃ gahapatiṃ sādhu saṃvibhajjañca bhojanaṃ, ahāso atthalābhesu atthabyāpatti abyatho.  

1210. “Đời gia chủ là khổ nhọc, và tốt lành thay sự sự thọ dụng được san sẻ, sự không đắc chí về các của cải và lợi lộc, và không có sầu não khi có sự tiêu hoại về của cải.

5. Biết đời phiền lụy lo âu,
Thức ăn uống phải phát cho nhiều người.
Chẳng ham tích trữ tiền tài,
Chẳng sầu khi chúng hết thời tiêu tan.

1211. Ettāva tesaṃ paṇḍiccaṃ asito devalo bravi, nayito kiñci pāpiyo indriyānaṃ vasaṃ vaje.  

1211. “Vị Devala ngăm đen đã nói chỉ bấy nhiêu về sự sáng suốt của các vị ấy. Không có cái gì tệ hại hơn điều này, là việc người nào đó chiều theo quyền lực của các giác quan.

6. De-va Trí giả Hắc nhan
Giờ đây khuyên nhủ khôn ngoan nhất đời:
Ta không hề thấy có người
Kém hơn kẻ chịu vâng lời dục tham.

1212. Amittānaṃva hatthatthaṃ siva pappoti māmiva, kammaṃ vijjañca dakkheyyaṃ vivāhaṃ sīlamaddavaṃ.

1212. “Tâu đức vua Siva, bệ hạ gánh chịu sự mất mát của cải vào trong tay các kẻ thù, tương tự như trường hợp của tôi về nghề nghiệp, kiến thức, tài năng, hôn nhân, giới hạnh, và sự lễ độ.

7. Chính tôi đây, hỡi Quân vương,
Khác nào giữa chốn đấu trường địch quân,
Công lao, nghề nghiệp, tài năng,
Vợ con, nhà ở bình an một thời,
Ðã tiêu tan hết cả rồi,
Tôi mang nghiệp quả ngay đời thế gian.

1213. Ete ca yase hāpetvā nibbatto sehi kammehi, sohaṃ sahassa jīnova abandhu aparāyaṇo. ariyadhammā atikkanto yathā peto tathevahaṃ.

1213. Sau khi đánh mất những tiếng tăm này, tôi bị thay đổi bởi các hành động của chính mình. Tôi đây giống như người bị thất bại một ngàn lần, không còn thân quyến, không nơi nương tựa. Trong khi lệch ra khỏi đạo lý cao thượng, tôi giống y như người đã chết.

8. Giờ tôi tồi tệ muôn vàn
Không người quyến thuuộc, lang thang không nhà.
Từ đời chân chánh lạc xa,
Tôi như một cái bóng ma đọa đày.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada