1172. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva nibodhati, muccate sattu sambādhā sulasā sattukāmivā ”ti.

1172. Và người nào mau chóng biết được cơ hội đã được sanh lên, rồi được thoát khỏi sự áp bức của kẻ thù, tựa như Sulasā được thoát khỏi gã Sattuka.”

9. Còn kẻ tinh nhanh ấy sự tình
Hiểm nguy đến với số phần mình,
Như nàng được thoát thân ra khỏi
Cừu địch bên mình đáng hãi kinh.

Câu chuyện 419

1173. Bhūsaṃ hi kuddhoti avekkhiyāna na tāvadaṇḍaṃ paṇayeyya issaro, aṭṭhānaso appatirūpamattano parassa dukkhāni bhusaṃ udīraye.

1173. “Bởi vì sau khi thường xuyên xem xét về sự ‘nóng giận,’ vị chúa tể không nên sử dụng đến hình phạt không phù hợp một cách không hợp lý đối với tư cách của bản thân, và không nên thường xuyên gây ra những sự khổ đau cho kẻ khác.

1. Ý thức giận hờn, nét mặt cau,
Quân vương đừng giáng trận đòn đau,
Những điều bất xứng ngôi Thiên tử
Sẽ tiếp theo sau cái gật đầu.

1174. Yatova jāneyya pasādamattano atthaṃ niyuñjeyya parassa dukkataṃ, tadāyamatthoti sayaṃ avekkhiya athassa daṇḍaṃ sadisaṃ nivesaye.

1174. Chỉ khi nào biết được sự cảm thông của bản thân (đối với tha nhân), mới nên phán xét ý nghĩa và việc làm sai trái của kẻ khác, khi ấy, sau khi đã tự mình xem xét thấy ‘đây là ý nghĩa.’ rồi mới ấn định hình phạt tương xứng dành cho kẻ ấy.

2. Ý thức tính tình bớt khắt khe,
Quân vương ban pháp lệnh ra uy,
Khi nào vụ án đà thông hiểu,
Hãy xác định các hình phạt thích nghi.

1175. Na cāpi jhāpeti paraṃ na attanaṃ amucchito yo nayate nayānayaṃ, yo daṇḍadhāro bhavatīdha issaro savaṇṇagutto siriyā na dhaṃsati.  

1175. Không làm khó dễ người khác, cũng không làm khó dễ bản thân, là người không bị lầm lẫn, tự mình phán xét đường lối đúng sai, ở đây, vị chúa tể nào là người có sự ấn định hình phạt có sự duy trì đức độ, vị chúa tể ấy không đánh mất sự vinh quang.

3. Không giận mình và chẳng giận ai,
Biết phân biệt rõ đúng và sai,
Dù vua ngự trị trên quần chúng,
Ðức hạnh khiến vua vĩ đại hoài.

1176. Ye khattiyā se anisammakārino paṇenti daṇḍaṃ sahasā pamucchitā, avaṇṇasaṃyuttā jahanti jīvitaṃ ito vimuttāpi ca yanti duggatiṃ.  

1176. Các vị Sát-đế-lỵ nào có hành động không cân nhắc, sử dụng hành phạt một cách tàn bạo, bị lầm lẫn, không quan tâm đến đức độ, các vị ấy từ bỏ cuộc sống, lúc lìa khỏi chốn này, liền đi đến chốn khổ đau.

4. Vua chúa buông lung các việc công,
Thực hành roi trượng chẳng bao dung,
Ô danh dưới thế phần vua hưởng,
Ðịa ngục đợi chờ lúc mạng chung.

1177. Dhamme ca ye ariyapavedite ratā anuttarā te vacasā manasā kammanā ca, te santi soraccasamādhisaṇṭhitāvajanti lokaṃ dubhayaṃ tathāvidhā.   

1177. Và những ai yêu thích đạo lý được tuyên thuyết bởi các bậc Thánh, các vị ấy hơn hẳn về lời nói, về ý nghĩ, và về hành động,các vị ấy đã đứng vững  ở sự an tịnh, ở sự hiền hòa, và ở sự định tâm, các vị đi đến cả hai thế giới, người và trời, theo cách thức phù hợp.

5. Người nào yêu đạo đức hiền nhân,
Trong sạch vẹn toàn khẩu, ý, thân,
Ðầy đủ từ tâm, an tịnh quý,
Vượt qua hai thế giới phàm trần.

1178. Rājāhamasmi narapamadānam issaro sacepi kujjhāmi ṭhapemi attanaṃ,nisedhayanto janataṃ tathāvidhaṃ paṇemi daṇḍaṃ anukampa yoniso.

1178. Trẫm là vua, là vị chúa tể của những người nam nữ. Thậm chí, nếu trẫm bị nổi giận, trẫm sẽ trấn tĩnh bản thân. Trong khi răn đe dân chúng theo cách thức phù hợp, trẫm sử dụng hành phạt đúng đắn thuận theo lòng thương xót.”

6. Trẫm là vua chúa của thần dân,
Sân hận không ngăn cản ý tâm,
Khi trẫm cầm gương đi trị tội,
Từ tâm thúc đẩy phạt công bằng.

1179. Sirī ca lakkhī ca tameva khattiya janādhipa mā vijahi kudācanaṃ,akkodhano niccapasannacitto anīgho tuvaṃ vassasatāni pālaya.  

1179. “Tâu vị Sát-đế -lỵ, vinh quang và hưng thịnh là thuộc về bệ hạ. Tâu quân vương, xin bệ hạ chớ lìa bỏ đạo lý bất cứ lúc nào.Xin bệ hạ hãy trị vì một  trăm năm, không phiền muộn, không có giận dữ, với tâm luôn tin tưởng.

7. Uy lực vinh quang của Ðại vương,
Ðừng bao giờ bỏ đạo luân thường,
Thoát ly sân hận và kinh hãi,
Trị nước trăm năm mãi lạc an.

1180. Guṇehi etehi upeta khattiya ṭhitamariyavatti suvaco akodhano, sukhī anuppīḷa pasāsa mediniṃ ito vimuttopi ca yāhi suggatiṃ.

1180. Tâu vị Sát-đế -lỵ, cầu mong bệ hạ thành tựu những đức tánh ấy, có lối cai trị cao thượng được thiết lập, dễ khuyên can, không giận dữ, có hạnh phúc. Cầu mong bệ hạ cai quản trái đất, không áp bức. Lúc lìa khỏi chốn này, cầu mong bệ hạ đi đến chốn an vui.

8. Vương tử có đầy đức tính trên
Nhân từ, song đạo hạnh trung kiên,
Trị toàn dân với lòng công chánh,
Khi bỏ cõi đời, đến cõi thiên.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada