1163. Asaṃsayaṃ jātikhayantadassī na gabbhaseyyaṃ punarāvajissaṃ, ayaṃ hi me antimā gabbhaseyyā khīṇo me saṃsāro punabbhavāyā ”ti.

1163. “Là người nhìn thấy sự tiêu hoại của việc sanh ra một cách chắc chắn, tôi sẽ không đi đến việc nằm trong bào thai lần nữa. Đây chính là lần nằm trong bào thai cuối cùng. Sự luân hồi đưa đến việc hiện hữu lần nữa của tôi đã được cạn kiệt.”

8. Tái sinh đã tận với ta,
Không vào thai mẹ từ giờ về sau,
Ðây đời cuối ở địa cầu
Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm trần.

1164. Idaṃ suvaṇṇakāyūraṃ muttā veḷuriyā bahū, sabbaṃ harassu bhaddante mañca dāsīti sāvaya.  

1164. “Chàng kính, cái vòng kiềng vàng này, nhiều ngọc trai và ngọc bích, xin chàng hãy mang đi tất cả, xin chàng hãy công bố thiếp là ‘nữ tỳ.’”

1. Này đây là chiếc vòng vàng,
Này đây ngọc bích cùng tràng hạt trai,
Lấy đi tất cả chàng ôi,
Xin chàng cho thiếp làm tôi tớ chàng!

1165. Oropayassu kalyāṇi mā bahuṃ paridevasi, na cāhaṃ abhijānāmi ahantvā dhanamāhataṃ.  

1165. “Này người đẹp, nàng hãy bỏ chúng xuống và chớ khóc than nhiều. Ta biết chắc chắn rằng không giết nàng thì ta không lấy được tài sản.”

2. Ðể vàng ngọc xuống, kiều nương,
Và nàng đừng có khóc thương buồn phiền,
Ta nay muốn giết nàng liền
Vì ta không chắc hưởng tiền hồi môn!

1166. Yato sarāmi attānaṃ yato pattosmi viññutaṃ, na cāhaṃ abhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā.  

1166. “Kể từ khi thiếp nhớ được bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự nhận thức, thiếp biết chắc chắn rằng không có người đàn ông nào khác được thiếp yêu mến hơn là chàng.

3. Suốt bao năm tháng lớn khôn,
Với bao hồi tưởng trong hồn thật chân,
Thiếp thề giữa cõi phàm trần
Không người nào đã thiết thân hơn chàng.

1167. Ehi taṃ upagūhissaṃ karissañca padakkhiṇaṃ, na hi dāni punā atthi mama tuyhañca saṅgamo.

1167. Xin chàng hãy đến, thiếp sẽ ôm lấy chàng và sẽ đi nhiễu xung quanh chàng, bởi vì giờ đây không còn có sự gặp gỡ giữa thiếp và chàng nữa.

4. Ðến đây lần nữa cuối cùng,
Thiếp xin kính lễ trong vòng bàn tay,
Chẳng bao giờ ở đời này
Ðôi ta gặp mặt từ đây hỡi chàng!

1168. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito, itthipi paṇḍitā hoti tattha tattha vicakkhaṇā.  

1168. “Không phải trong mọi trường hợp người nam đều sáng suốt, phụ nữ cũng sáng suốt và khôn ngoan trong trường hợp này hoặc trường hợp khác.

5. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi có thể nhiều minh trí
Xuất hiện trong tình thế hiểm nguy.

1169. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito, itthipi8 paṇḍitā hoti lahumatthavicintikā.  

1169. Không phải trong mọi trường hợp người nam đều sáng suốt, phụ nữ cũng sáng suốt và suy xét điều lợi ích một cách mau chóng.

6. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi nhanh trí nhiều mưu kế
Dự định làm công việc kịp thì.

1170. Lahuñca vata khippañca nikaṭṭhe samacetayi, migaṃ puṇṇāya tenevaṃ sulasā sattukaṃ vadhi.  

1170. Đúng vậy, nàng đã tự mình suy nghĩ kế hoạch giết chết kẻ thù đang đứng gần một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng. Người thợ săn giết chết con thú bằng cây cung hoàn hảo như thế nào thì Sulasā đã giết chết Sattuka như vậy.

7. Cô nàng bày tỏ trí khôn ngoan
Hiểu biết tinh thông mọi lối đường,
Ðã giết anh chàng này chẳng khác
Giết con nai với chiếc cung giương.

1171. Yodha uppatitaṃ atthaṃ na khippamanubujjhati, so haññati mandamatī corova girigabbhare.

1171. Ở đây, kẻ nào không mau chóng nhận ra cơ hội đã được sanh lên, kẻ có đầu óc đần độn ấy bị giết chết tựa như gã trộm bị giết chết ở hang núi. 8. Người nào khi gặp cảnh cùng đường,
Không thể vươn lên để thoát thân
Sẽ ngã nhào như tên trộm ngốc
Ngã vào trong vực thẳm tan xương.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada