1155. Sā kātiyāni suṇisāya saddhiṃ sammodamānā gharamāvasitvā, putto ca nattā ca upaṭṭhahiṃsu devānamindena adhiggahītā ”ti.

1155. “Bà Kātiyāni ấy cùng với người con dâu
đã sống chung nhà, hòa thuận.
Con trai và cháu trai đã phụng dưỡng.
Bà đã được vị Chúa của chư Thiên nâng đỡ.”

9. Với con dâu thảo lại vui mừng
Bà lão Ka-ti đã sống chung,
Thiên chủ giải hòa xung đột cũ,
Cháu con săn sóc thật ân cần.

Câu chuyện 417

1156. Idaṃ pure ninnamāhu bahumacchaṃ mahodikaṃ, āvāso bakarājassa pettikaṃ bhavanaṃ mama, tyajja bhekena yāpema okaṃ na vijahāmase.

1156. “Trước đây, chỗ này đã là vùng trũng, có nhiều cá, có nhiều nước, là chỗ ngụ của hạc chúa, là nơi cư trú của cha ta. Hiện nay, chúng tôi đây nuôi sống bằng loài ếch nhái, chúng tôi không lìa bỏ chỗ ở này.”

1. Ngày xưa thường gọi chốn này
Ao sâu, tôm cá lội đầy tung tăng,
Là nơi cư trú Hạc vương,
Tổ tiên ta cũng sống thường trước kia.
Dẫu ăn ếch nhái bây giờ,
Chúng ta không thể xa bờ ao xưa.

1157. Ko dutiyaṃ asīlassa bandhurassakkhi bhejjati, ko me putte kulāvakaṃ mañca sotthiṃ karissati.  

1157. “Ai sẽ làm hỏng con mắt thứ hai của kẻ phá giới Bandhura? Ai sẽ tạo ra sự an toàn cho các chim con của tôi, cái tổ chim, và tôi?”

2. Anh chàng một mắt Ban-ra
Là ai mà cứ phá nhà của tôi?
Bầy chim mới nở, than ôi!
Ai người thân thiện cứu tôi khốn cùng?

1158. Sabbā parikkhatā pheggu yāva tassā gatī ahu, khīṇabhakkho mahārāja sāre na ramatī ghuṇo.  

1158. “Tất cả phần giác gỗ đã bị gặm nhấm cho đến chỗ tận cùng của nó. Tâu đại vương, thức ăn bị cạn kiệt, loài mọt không ưa thích lõi gỗ.

3. Ta vừa ăn hết gỗ sung,
Mọi nơi ta đã đi vòng quanh co,
Gỗ nào cứng, mọt khó ưa,
Còn thức ăn khác ở xa dưới mình!

1159. Sā nūnāhaṃ ito gantvā rañño muttā nivesanā, attānaṃ ramayissāmi dumasākhāniketinī.

1159. “Ước gì sau khi đi đến nơi này, chim cu cu tôi được thoát khỏi cung điện của đức vua, tôi sẽ vui thích tự thân, khi có được chỗ ngụ ở cành cây!”

4. Ước gì rời chốn cung đình!
Ước gì giải thoát thân mình tự do!
Hân hoan bay lượn rừng già,
Rồi ta xây tổ của ta trên cành.

1160. So nūnāhaṃ ito gantvā rañño mutto nivesanā, aggo dakāni pivissāmi yūthassa purato vajaṃ.

1160. “Ước gì sau khi đi đến nơi này, nai tôi được thoát khỏi cung điện của đức vua, là thủ lãnh, tôi sẽ uống nước, trong khi đi phía trước bầy nai.”

5. Ước gì rời chốn cung đình!
Ước gì giải thoát thân mình vui sao!
Uống dòng nước suối trong veo,
Dẫn đàn nai vẫn bước theo sau mình!

1161. Taṃ maṃ kāmehi sampannaṃ rattaṃ kāmesu mucchitaṃ, ānayī harato luddo bāhiko bhaddamatthu te.

1161. “Được đầy đủ các dục, tôi đây bị luyến ái, bị mê mẫn trong các dục. Gã thợ săn Bharata người ngoại xứ đã dắt tôi đi. Mong rằng sự may mắn hãy có cho ông.”

6. Lòng ta nặng trĩu dục tình,
Với bao ước vọng thân mình nhiễm ô,
Bha-ta, lạp hộ bắt ta,
Ước mong phước phận lão gia tràn trề!

1162. Andhakāratimisāyaṃ tuṅge uparipabbate, sā maṃ saṇhena mudunā mā pādaṃ khaṇiyasmani.

1162. “Trong bóng tối của đêm đen, ở phía trên ngọn núi cao nhọn, nàng đã nói với tôi bằng giọng nói mềm mỏng, dịu dàng: ‘Chàng chớ để trượt chân ở tảng đá.’”

7. Bóng đêm dày đặc kéo về
Trên non cao nọ tứ bề cô đơn,
"Xin chàng đừng ngã trượt chơn",
Nàng khe khẽ nhắc bên sườn đá xưa.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada