1147. Odātavatthā suci allakesā kaccāni kiṃ kumbhimadhissayitvā, piṭṭhā tilā dhovasi taṇḍulāni tilodano hohiti kissa hetu.  

1147. “Bà mặc y phục trắng, sạch sẽ, tóc thấm ướt. Này Kaccāni, bà đã nấu cái nồi gì vậy? Mè đã được xay, bà vo gạo. Cơm mè sẽ là nguyên nhân của việc gì?”

1. Mặc áo trắng và tóc xõa vai,
Kac-cà-ni lại nấu nồi sôi,
Gạo mè bà rửa đằng kia đó,
Bà có dùng không lúc chín rồi?

1148. Na kho ayaṃ brāhmaṇa bhojanatthā tilodano hohiti sādhupaññā, dhammo mato tassa bahūtamajja ahaṃ karissāmi susānamajjhe.  

1148. “Thưa vị Bà-la-môn, cái này không phải để ăn. Cơm mè sẽ có mục đích tốt đẹp. Đạo lý đã chết rồi, tôi sẽ thực hiện việc cúng cơm cho nó ở giữa bãi tha ma.”

2. Ðạo sĩ ơi, tôi chẳng muốn ăn
Mè xay và cả món cơm hầm:
Giờ đây đã chết thần Công chánh,
Tôi muốn cúng dâng lễ tế thần.

1149. Anuvicca kaccāni karohi kiccaṃ dhammo mato ko nu tavetasaṃsī, sahassanetto atulānubhāvo na mīyati dhammavaro kadāci.  

1149. “Này Kaccāni, bà hãy suy xét và hãy làm việc nên làm.
Vậy ai đã tuyên bố với bà là đạo lý đã chết rồi?
Đấng Ngàn Mắt có năng lực không thể sánh bằng.
Đạo lý cao quý không bị chết bao giờ.”

3. Khi quyết định, bà phải nghĩ suy:
Bà nghe ai nói vọng ngôn kia?
Ngài ngàn mắt ấy đầy uy lực,
Công chánh Thần không thể chết đi.

1150. Daḷhappamāṇaṃ mama ettha brahme dhammo mato natthi mamettha kaṅkhā, ye yevadāni pāpā bhavanti te tevadāni sukhitā bhavanti.  

1150. “Thưa vị Bà-la-môn, tôi có sự phán quyết chắc chắn về điều này.
Đạo lý đã chết rồi, tôi không có nghi ngờ về điều này.
Hiện nay, những cái gì là sai trái,
những cái ấy, hiện nay, được an ổn.

4. La-môn, tôi chứng kiến rành rành,
"Công lý chết rồi." Tôi phải tin:
Tất cả kẻ nào theo ác hạnh
Hiện giờ hưởng đại phồn vinh.

1151. Suṇisā hi mayhaṃ vañjhā ahosi sā maṃ vadhitvāna vijāyi puttaṃ, sādāni sabbassa kulassa issarā ahaṃ panamhi apaviddhā ekikā.  

1151. Bởi vì con dâu của tôi đã bị hiếm muộn. Cô ta, sau khi hành hạ tôi, đã sanh con trai. Giờ đây, cô ta là chủ nhân của toàn bộ gia đình. Còn tôi, ngược lại, bị đuổi đi, chỉ có một mình.”

5. Dâu của tôi ngày trước hiếm hoi,
Ðánh tôi, rồi lại đẻ con trai,
Nó thành bà chủ trong nhà ấy,
Tôi bị lãng quên, bị bỏ rơi.

1152. Jīvāmi vohaṃ nāhaṃ matosmi aveva atthāya idhāgatosmi, yā taṃ vadhitvāna vijāyi puttaṃ sahāva puttena karomi bhasmaṃ.

1152. “Ta vẫn còn sống, ta không có bị chết.
Ta đã đi đến nơi này vì lợi ích của chính bà.
Cô dâu nào, sau khi hành hạ bà, đã sanh con trai,
ta sẽ làm cho cô ta và đứa con trai hóa ra tro.”

6. Không phải đâu, ta sống mãi mà,
Nay ta giáng thế, chính vì bà,
Dâu bà đánh mẹ, song dâu cháu,
Sẽ hóa tro trong lửa của ta.

1153. Etañca te ruccati devarāja mameva atthāya idhāgatosi, ahañca putto suṇisā ca nattā sammodamānā gharamāvasema.

1153. “Thưa Thiên Vương, điều này được ngài vui thích,
ngài đã đi đến nơi này vì lợi ích của chính tôi.
Tôi, con trai, con dâu, và cháu trai,
hãy cho chúng tôi sống chung nhà, hòa thuận.”

7. Thiên chủ, mong sao hợp ý ngài,
Vì tôi, ngài đến tự trên trời,
Ước mong đôi trẻ và thằng cháu
Ðược sống đời hòa thuận với tôi.

1154. Etañca te ruccati kātiyāni hatāpi santā na jahāsi dhammaṃ, tuvañca putto suṇisā ca nattā sammodamānā gharamāvasetha.

1154. “Này Kātiyāni, điều này được bà vui thích, ngay cả trong khi bị đánh đập, bà cũng không từ bỏ đạo lý. Bà, con trai, con dâu, và cháu trai,
quý vị hãy sống chung nhà, hòa thuận.”

8. Ka-ti sẽ mãn nguyện, vì bà
Bị đánh, song bà tin tưởng ta
Công chánh, vậy cùng con, cháu nội
Sống đời hòa thuận ở trong nhà.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada