1127. Sādhu jāgarataṃ sutto sādhu suttesu jāgaro, sādhu metaṃ vijānāsi sādhu paṭibhaṇāsi me ”ti.
1127. “Tốt đẹp thay ông ngủ giữa những người đang thức! Tốt đẹp thay ông thức giữa những người ngủ! Tốt đẹp thay ông hiểu câu hỏi ấy của ta! Tốt đẹp thay ông giải thích cho ta!”
7. Lành thay ngài tỉnh thức khi người ngủ,
Và ngủ khi bao người khác tỉnh rồi!
Lành thay ngài hiểu câu đố của tôi,
Lời giải đáp của ngài bao tốt đẹp!
1128. Na kiratthi anomadassisu pāricariyā buddhesu appikā, sukkhāya aloṇikāya ca passa phalaṃ kummāsapiṇḍiyā.
1128. “Thật vậy, sự phục vụ đến các vị Phật Độc Giác Anomadassī không phải là nhỏ nhoi. Hãy nhìn xem quả báu của phần cháo đặc khô khan không dầu và không muối gia vị.
1. Cúng dường chư Phật quý cao thay,
Người bảo đừng xem rẻ việc này,
Ðem tặng cháo dù không có muối
Cho ta phước báo lớn như vầy.
1129. Hatthigavāssā ca me bahū dhanadhaññaṃ paṭhavī ca kevalā, nāriyo cimā accharūpamā passa phalaṃ kummāsapiṇḍiyā.
1129. Và tôi có được nhiều voi, bò, ngựa, tài sản, lúa gạo, toàn thể trái đất, và những nữ nhân giống như tiên nữ này. Hãy nhìn xem quả báu của phần cháo đặc.”
2. Ngựa, voi cùng với đám trâu bò,
Vàng, bạc, thóc ngô, cả nước nhà,
Ðám mỹ nữ hình dung yểu điệu,
Cúng dường đem quả đến tay ta.
1130. Abhikkhaṇaṃ rājakuñjara gāthā bhāsasi kosalādhipa, pucchāmi taṃ raṭṭhavaḍḍhana bāḷhaṃ pītimano pabhāsasi.
1130. “Tâu đại vương, bậc thầy tổ về thiện pháp, ngài thường xuyên thốt ra các câu thơ. Tâu bậc có sự phát triển về quốc độ, thiếp xin hỏi bệ hạ: Bệ hạ có tâm ý hoan hỷ một cách mãnh liệt, xin bệ hạ hãy giải thích.”
3. Hoàng thượng đầy vinh hiển, chánh chân,
Khúc ca ngài hát đã bao lần,
Trong niềm hoan lạc đầy tâm trí,
Cho thiếp đặc ân biết ngọn nguồn.
1131. Imasmiṃ yeva nagare kule aññatare ahuṃ, parakammakaro āsiṃ bhatako sīlasaṃvuto.
1131. “Trẫm đã được sanh ra trong một gia đình ở ngay tại thành phố này. Trẫm đã là người làm công cho người khác, người làm thuê, và là người gìn giữ giới.
4. Chính tại thành này, kiếp trước đây,
Ở trong hoàn cảnh khác ngày nay,
Ta là tôi tớ cho người khác,
Làm mướn, song đức hạnh thẳng ngay.
1132. Kammāya nikkhamantāhaṃ caturo samaṇe addasaṃ, ācārasīlasampanne sītibhūte anāsave.
1132. Trong khi rời khỏi thành vì công việc, trẫm đã nhìn thấy bốn vị Sa-môn đầy đủ hạnh kiểm và giới luật, có bản thể mát mẻ, không còn lậu hoặc.
5. Một hôm rời tỉnh để làm công,
Bốn Ðạo Sư kia, ta chợt trông
Dáng điệu ly tham và tĩnh lặng,
Thiện toàn trong Giới luật tu thân.
1133. Tesu cittaṃ pasādetvā nisīdetvā paṇṇasanthate, adāsiṃ buddhānaṃ kummāsaṃ pasanno sehi pāṇihi.
1133. Sau khi khởi tâm tịnh tín đối với các vị ấy, trẫm đã thỉnh các vị ngồi xuống ở tấm thảm lá cây. Được tịnh tín, trẫm đã tận tay dâng cháo đặc đến các vị Phật.
6. Tư tưởng ta quy ngưỡng Phật-đà,
Khi chư vị nghỉ dưới cây già,
Chấp tay đảnh lễ, ta đem đến
Thành kính cúng dường món cháo hoa.
1134. Tassa kammassa kusalassa idaṃ me edisaṃ phalaṃ, anubhomi idaṃ rajjaṃ phītaṃ dharaṇimuttamaṃ.
1134. Quả báu của nghiệp thiện ấy đã thành tựu đến trẫm là như thế này. Trẫm đã thọ hưởng vương quốc này, vùng đất hạng nhất, giàu có.”
7. Thiện nghiệp tạo nên phước đức dày,
Quả thành ta gặt được giờ đây:
Vinh hoa phú quý đời vương giả,
Quốc độ do ta cai trị này.
1135. Dada bhuñja ca mā ca pamādo cakkaṃ vattaya kosalādhipa, mā rāja adhammiko ahū dhammaṃ pālaya kosalādhipa.
1135. “Xin bệ hạ hãy bố thí rồi mới ăn, và chớ có xao lãng. Tâu bậc thầy tổ về thiện pháp, xin bệ hạ hãy xoay chuyển bánh xe (công lý). Tâu đức vua, bệ hạ chớ là vị vua bất công. Tâu bậc thầy tổ về thiện pháp, xin bệ hạ hãy hộ trì công lý.”
8. Hãy ăn, khi nhớ cúng dường rồi,
Chuyển bánh xe chân chánh khắp nơi:
Hoàng thượng tránh xa điều bất chánh,
Cầm quyền chân chánh nước non ngài.
1136. Sohaṃ tadeva punappunaṃ vaṭumaṃ ācarissāmi sobhane, ariyācaritaṃ sukosale arahanto me manāpā passituṃ.
1136. “Này ái hậu, trẫm đây sẽ thực hành lập đi lập lại chính con đường ấy, con đường đã được các bậc Thánh nhân thực hành. Này ái nữ xinh đẹp của đức vua xứ Kosala, trẫm có sự hoan hỷ khi nhìn thấy các bậc A-la-hán.”
9. Ta vẫn tạo riêng một lối đường,
Bước theo đạo lộ chánh chân luôn,
Nơi người hiền thiện thường đi đến,
Ðẹp mắt ta nhìn các Thánh nhân.
1137. Devī viyaccharūpamā majjhe nārigaṇassa sobhasi, kiṃ kammamakāsi bhaddakaṃ tenāsi vaṇṇavatī sukosale.
1137. “Hoàng hậu giống như cô tiên nữ, nàng rực rỡ ở giữa đám phụ nữ. Này ái nữ xinh đẹp của đức vua xứ Kosala, nàng đã làm nghiệp gì tốt đẹp, nhờ vậy, nàng có sắc đẹp?”
10. Ái hậu như tiên nữ cõi trời,
Trông nàng rực rỡ vượt bao người,
Vậy nhờ thiện nghiệp nào đưa đến
Phước báo dung quang quá tuyệt vời?
1138. Ambaṭṭhakulassa khattiya dāsyāhaṃ parapessiyā ahuṃ, saññatā dhammajīvinī sīlavatī ca apāpadassanā.
1138. “Tâu vị Sát-đế-lỵ, thiếp đã là nữ nô lệ của gia tộc Ambaṭṭha, là nữ tỳ hầu hạ người khác. Thiếp đã tự kiềm chế (thân khẩu), có sự nuôi mạng đúng pháp, là người nữ có giới hạnh, và có dáng vẻ tốt đẹp.
11. Thiếp vốn nô tỳ một quý nương
Ở hoàng cung của Am-ba-vương,
Thiếp chuyên tâm thực hành khiêm tốn,
Ðức hạnh và tu tập thiện ngôn.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada