1113. Saṅkayye saṅkitabbāni rakkheyyānāgataṃ bhayaṃ, anāgatabhayā dhīro ubho loke avekkhatī ”ti.
1113. “Nên lo ngại về những điều đáng lo ngại, nên phòng ngừa nỗi nguy hiểm ở tương lai. Vì sự nguy hiểm trong tương lai, bậc sáng trí xem xét cả hai đời (đời này và đời sau).”
7. Phải kinh hãi việc đáng kinh hoàng,
Hiểm họa đến thân phải hộ phòng,
Bậc trí lặng nhìn hai thế giới,
Nếu gây kinh hãi, phải rời chân.
1114. Rājā apucchi vidhuraṃ dhammakāmo yudhiṭṭhilo, api brāhmaṇa jānāsi ko eko bahu socati.
1114. “Vua Yudhiṭṭhila, với sự yêu mến công lý, đã hỏi Vidhura rằng: ‘Này Bà-la-môn, ông có biết người nào một mình mà sầu muộn về nhiều việc?’”
1. Một hôm minh đế Yu-dhi-la,
Hỏi bậc Trí nhân Vi-dhù-ra:
"Hiền hữu Bà-la-môn có biết
Tim ai sầu thống thiết hơn ta?"
1115. Brāhmaṇo ajayūthena bahūtedho vane vasaṃ, dhūmaṃ akāsi vāseṭṭho rattindivamatandito.
1115. “Vị Bà-la-môn Vāseṭṭha có nhiều củi gỗ, trong khi sống ở trong rừng với bầy dê, đã thực hiện việc xông khói đêm ngày, không biếng nhác.
2. Bà-la-môn có một bầy dê,
Dòng họ Va-si sang trọng kia,
Ðốt lửa ngày đêm luôn bốc khói,
Sống đời an lạc chốn sơn khê.
1116. Tassa taṃ dhūmagandhena sarabhā makasadditā, vassāvāsaṃ upagañchuṃ dhūmakārissa santike.
1116. Do mùi hương khói ấy của vị Bà-la-môn, những con nai rừng, bị quấy rầy bởi lũ muỗi, đã đi đến cư trú mùa mưa kề cận khu trại của Bà-la-môn Dhūmakārī.
3. Ngửi mùi khói bốc, một bầy nai
Do bị nhặng đeo quấy rối hoài,
Tìm chỗ trú khi mưa gió đến,
Gần nhà mục tử Dhu-ma-kai.
1117. Sarabhesu manaṃ katvā ajāyo nāvabujjhatha, āgacchantī vajantī vā tassa tā vinassuṃ ajā.
1117. Sau khi quan tâm đến các con nai rừng, Dhūmakārī đã không biết đến các con dê đến hay đi; những con dê ấy của Dhūmakārī đã bị mất mát.
4. Bầy nai giờ được mọi yêu thương,
Dê chẳng được ai thiết ngó ngàng,
Ði lại tự do không bảo hộ,
Cho nên chúng phải bị suy tàn.
1118. Sarabhā ca sarade kāle pahīnamakase vane, pāvisuṃ giriduggāni nadīnaṃ pabhavāni ca.
1118. Và vào mùa thu, khi muỗi ở trong rừng được giảm thiểu, các con nai rừng đã đi vào các khe núi hiểm trở và các suối đầu nguồn của các dòng sông.
5. Song nay nhặng đã bỏ khu rừng,
Thu đến, mùa mưa chấm dứt luôn,
Nai phải đi tìm bao đỉnh núi,
Cùng khe suối chảy ở trên nguồn.
1119. Sarabhe ca gate disvā ajā ca vibhavaṃ gatā, kiso ca vivaṇṇo āsi paṇḍurogī ca brāhmaṇo.
1119. Sau khi nhìn thấy các con nai đã ra đi và các con dê đã đi đến sự tiêu diệt, vị Bà-la-môn đã trở nên gầy ốm, xuống sắc, và bị bệnh vàng da.
6. Mục tử thấy nai đã bỏ đi,
Cả bầy dê cũng chết nằm kia,
Bệnh sầu não đến làm mòn mỏi
Da dẻ ngày thêm một tái tê.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada