1099. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna vāsavā ”ti.
1099. Ta đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Thưa Thiên Chủ, sau khi lắng nghe ngài, ta không sầu muộn, không khóc lóc.”
9. Mũi tên vừa được nhổ ra,
Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi
Lắng nghe Thiên chủ nhủ lời,
Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.
1100. Kāḷāni kesāni pure ahesuṃ jātāni sīsamhi yathāpadese, tānajja setāni susīma disvā dhammaṃ cara brahmacariyassa kālo.
1100. “Các sợi tóc trước kia đã là màu đen, chúng mọc lên tại vị trí phù hợp ở trên đầu. Giờ đây, sau khi nhìn thấy chúng bạc trắng, này Susīma, nay là thời điểm của Phạm hạnh, ngươi hãy thực hành giáo pháp.”
1. Tóc ta đen nhánh tự ngày xưa
Vẫn mọc quanh vần trán của ta,
Bạc trắng giờ đây, lưu ý nhé:
Ðến thời tu tập giã từ nhà.
1101. Mameva deva palitaṃ na tuyhaṃ mameva sīsaṃ mama uttamaṅgaṃ, ‘atthaṃ karissan ’ti musā abhāṇiṃ ekāparādhaṃ khama rājaseṭṭha.
1101. “Tâu bệ hạ, sợi tóc bạc là của thiếp đây, không phải của ngài, từ đầu của thiếp đây, từ phần đỉnh đầu của thiếp. Thiếp đã nói lời dối trá (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ làm điều lợi ích.’
Tâu chúa thượng, xin bệ hạ hãy tha thứ lỗi lầm cho thiếp một lần này.
2. Tóc bạc thiếp đây, chẳng phải chàng,
Từ trên đầu thiếp mới đưa sang,
Vì chàng, thiếp nói điều hư vọng,
Xin lượng thứ cho lỗi thiếp làm.
1102. Daharo tuvaṃ dassanīyosi rāja paṭhamuggato hohi yathā kaḷīro, rajjañca kārehi mamaṃ ca passa mā kālikaṃ anudhāvī janinda.
1102. Tâu bệ hạ, ngài trẻ tuổi, (đẹp dáng) đáng nhìn, ngài trỗi dậy ở lứa tuổi thanh niên, giống như chồi non, ngài hãy cai quản vương quốc và hãy ngắm nhìn thiếp. Tâu vị chúa của loài người, ngài chớ đeo đuổi việc viễn vông.”
3. Trông chàng tươi đẹp, dáng thanh tân
Như một cây non trẻ giữa xuân,
Hãy trị nước nhà, cười với thiếp,
Ðừng tìm việc của tuổi thu đông!
1103. Passāmi vohaṃ dahariṃ kumāriṃ sāmaṭṭhapassaṃ sutanuṃ sumajjhaṃ, kāḷāpavāḷāva pavellamānā palobhayantīva naresu gacchati.
1103. “Trẫm nhìn ngắm người thiếu nữ tuổi thanh xuân, có vóc dáng hài hòa, với thân hình đẹp, với vòng eo xinh. Tựa như mầm dây leo đang chuyển động, nàng bước đi, tựa như đang làm say đắm các nam nhân.
4. Ta thường trông thiếu nữ xuân thì,
Uyển chuyển như cành lả lướt kia,
Kiêu mạn vì hình dung diễm lệ,
Mọi người say ngắm bước chân đi.
1104. Tamena passāmi parena nāriṃ āsītikaṃ nāvutikaṃva jaccā, daṇḍaṃ gahetvāna pavedhamānaṃ gopāṇasībhoggasamaṃ carantiṃ.
1104. Trẫm nhìn ngắm nàng ấy vào thời điểm khác, vào độ tuổi tám mươi, hoặc chín mươi, nàng cầm lấy cây gậy, run lẩy bẩy, lưng còng xuống giống như sừng bò, đang bước đi.
5. Cũng chính nàng kia, ta ngắm trông
(Trải qua đã tám, chín mươi năm)
Run run chân bước, tay cầm gậy,
Thân thể còng như ngọn liễu rung.
1105. Sohaṃ tamevānuvicintayanto eko sayāmi sayanassa majjhe, ahampi evaṃ iti pekkhamāno na gehe rame brahmacariyassa kālo.
1105. Trẫm đây, trong lúc suy gẫm về chính điều ấy, một mình, trẫm nằm ở giữa chiếc giường, cũng như vậy, trong lúc trẫm xem xét như thếtrẫm không thích thú ở gia đình; nay là thời điểm của Phạm hạnh.
6. Những ý tưởng này ta xét luôn,
Tư duy vẫn đến giữa đêm đơn,
Ðời người thế tục ta không chuộng,
Ðúng lúc tu hành phải bước chân.
6. Susīmajātakaṃ - Bổn sanh Vua Susīma
1106. Rajjuvālambanī cesā yā gehe vasato rati, etampi chetvāna vajanti dhīrā, anapekkhino kāmasukhaṃ pahāyā ”ti.
1106. Sự vui thích của người sống ở gia đình có sự lòng thòng tựa như sợi dây thừng. Sau khi cắt đứt luôn cả việc này, các bậc sáng trí ra đi, không có mong cầu, sau khi đã dứt bỏ khoái lạc của các dục.”
7. Dục lạc trong đời sống thế nhân
Là nơi hèn yếu để nương thân,
Trí nhân cắt đứt, theo đường khác,
Bỏ dục lạc đầy đủ lực hùng.
1107. Ahaṃ dasasataṃ vyāmaṃ uragamādāya māgato, tañca mañca mahākāyaṃ dhārayaṃ nappavedhasi.
1107. “Ta đã đi đến mang theo con rắn dài một ngàn sải tay. Trong khi nâng đỡ con rắn ấy và ta có thân hình to lớn, ông không run rẩy.
1. Ta mang thân xác của xà vương
Cùng với thân ta lớn dị thường,
Thân rắn kia dài ngàn trượng chẵn,
Song cây không chuyển động kinh hoàng.
1108. Atha imaṃ khuddakaṃ pakkhiṃ appamaṃsataraṃ mayā, dhārayaṃ vyādhase bhīto kamatthaṃ koṭisimbali.
1108. Giờ đây, trong khi nâng đỡ con chim nhỏ có ít thịt hơn cùng với ta, ông lại rung động, khiếp sợ, này thần cây bông vải, vì lý do gì?”
2. Nay mang chim nhỏ bé ti ti
So với ta đây chẳng sá chi,
Cây lại run hoài vì sợ hãi,
Hỡi cây bông vải, lý do gì?
1109. Maṃsabhakkho tuvaṃ rāja balabhakkho ayaṃ dijo, ayaṃ nigrodhabījāni pilakkhadumbarāni ca, assatthāni ca bhakkhetvā khandhe me odahissati.
1109. “Thưa điểu vương, ngài là loài ăn thịt, con chim này là loài ăn trái cây. Con chim này, sau khi ăn các hạt giống của cây đa, các chùm trái sung, và các hạt của cây vả, nó sẽ đại tiện xuống thân xác của tôi.
3. Thịt mỡ ngài xơi, hỡi Ðiểu vương,
Trái cây là thức của chim muông,
Hạt đa, sung, với bồ-đề nữa,
Nếu mọc, toàn thân ta chết luôn!
1110. Te rukkhā saṃvirūhanti mama passe nivātajā, te pariyonandhissanti arukkhaṃ maṃ karissare.
1110. Những cây ấy tự nảy mầm, được sanh lên an toàn ở bên sườn của tôi. Chúng sẽ bao trùm lên và sẽ làm cho tôi không còn là cây nữa.
4. Hạt ấy về sau sẽ mọc cây,
Rồi che phủ cả hết thân này,
Ta không còn có cây nào nữa
Vì bị chúng che kín phủ đầy.
1111. Santi aññepi rukkhāse mūlino khandhino dumā, iminā sakuṇajātena bījamāharitvā hatā.
1111. Cũng có những cây cối khác là những loài thảo mộc có rễ và thân gỗ bị hủy hoại bởi loài cây đã được sanh lên do con chim mang lại hạt giống.
5. Một khi cây đã lớn lên nhanh,
Rễ mạnh quanh thân, rậm rạp cành,
Chứng tỏ hạt do chim tích trữ
Mang mầm hủy hoại đến cho mình.
1112. Ajjhārūḷhābhivaḍḍhanti brahantampi vanaspatiṃ, tasmā rāja pavedhāmi sampassaṃ nāgataṃ bhayaṃ.
1112. Những cây ấy vươn lên nhanh, phát triển vượt trội luôn cả cây rừng to lớn; vì thế, thưa điểu vương, tôi run rẩy trong khi nhìn thấy nỗi nguy hiểm ở tương lai.”
6. Loại cây mọc bám sẽ chôn thây
Ngay cả cây rừng vĩ đại này,
Vì vậy, Ðiểu vương, ta rúng động
Khi ta lo sợ thấy như vầy.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada