1090. Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo yāvantettha samāgatā, sabbe kataññuno hotha ciraṃ saggamhi ṭhassathā ”ti.

1090. Thưa các vị đã đến tụ hội ở nơi này, tôi nói với các vị điều ấy. Tất cả các vị hãy là những người biết tri ân, các vị sẽ an trú ở cõi trời thời gian dài.”

7. Ta nói điều chân lý trọn lành,
Cho thần dân tụ tập chung quanh:
Phải luôn ghi nhớ công ơn cũ,
Thiên giới dành phần sống hiển vinh.

1091. Yo maṃ pure paccudeti araññe dūramāyati, so na dissati mātaṅgo somadatto kuhiṃ gato. 

1091. “Con voi Somadatta trước đây thường đi sâu vào trong rừng và tiếp đón ta, giờ nó không được nhìn thấy. Somadatta đã đi đâu?

1. Bước sâu vào tận trong rừng,
Nó thường vẫn đến đón mừng ta ngay,
Nhưng sao chẳng thấy hôm nay,
Voi con đi lạc chẳng hay lối về?

1092. Ayaṃ vā so mato seti allapiṅkaṃva chijjito, bhūmyā nipatito seti amarā vata kuñjaro. 

1092. Nó đây đã bị chết, nằm dài, tựa như chồi non bị bẻ gãy. Nó gục ngã nằm dài ở trên mặt đất. Con voi quả thật đã chết rồi!”

2. Chính voi vừa chết nằm kia
Như búp măng bị cắt lìa nát thân,
Voi nằm dưới đất ngã lăn,
Con voi ta đã lìa trần, than ôi!

1093. Anagāriyupetassa vippamuttassa cetaso, samaṇassa na taṃ sādhu yaṃ petamanusocasi. 

1093. “Việc ông sầu muộn về kẻ đã chết là không tốt đẹp đối với vị Sa-môn đã đạt đến cuộc sống không nhà, có tâm tư đã được giải thoát.”

3. Sầu thương vật đã chết rồi,
Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư,
Thoát dây tục lụy, xuất gia,
Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!

1094. Saṃvāsena have sakka manussassa migassa vā, hadaye jāyatī pemaṃ taṃ na sakkā asocituṃ.

1094. “Thưa Thiên Chủ Sakka, đương nhiên do việc sống chung, con người hay loài thú có sự yêu thương sanh khởi ở trái tim; không thể không sầu muộn về vật đã được yêu thương ấy.”

4. Nếu người bầu bạn thú hiền,
Thưa ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
Buồn phiền vì mất bạn chơi,
Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu!

1095. Mataṃ marissaṃ rodanti ye rudanti lapanti ca, tasmā tvaṃ isi mā rodi roditaṃ moghamāhu santo. 

1095. “Những ai thường khóc lóc và than vãn, chúng khóc lóc kẻ đã chết, rồi khóc lóc kẻ sẽ chết; vì thế, này ẩn sĩ, ông chớ khóc lóc. Các bậc thiện nhân đã nói khóc lóc là vô ích.

5. Người đời lắm kẻ ước ao
Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương,
Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.

1096. Kanditena have brahme mato peto samuṭṭhahe, sabbe saṅgamma rodāma aññamaññassa ñātake. 

1096. Thật vậy, này Bà-la-môn, nếu người đã chết, đã ra đi, có thể sống lại nhờ vào sự than khóc, thì tất cả chúng ta hãy tụ tập lại và khóc lóc cho các thân quyến, người này cho người kia qua lại lẫn nhau.”

6. Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
Thì ta quyết phải hợp quần
Ðể mà cứu mọi vật thân nhất đời!

1097. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃva pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ. 

1097. “Quả thật, trong khi ta đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, ngài có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.

7. Ví như ngọn lửa sáng ngời
Ðổ thêm bỏ sữa cháy hoài thật cao,
Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.

1098. Abbahī vata me sallaṃ sokaṃ hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.

1098. Khi ta bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về con trai của ta, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của ta.

8. Lòng ta nhức nhối xót xa
Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng,
Ngài đà chữa trị vết thương,
Và ngài hồi phục đời thường cho ta.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada