1068. Yasmā ca panidhekacce ācāramhi susikkhitā, tasmā vinītavinayā caranti susamāhitā ”ti.

1068. Và ngược lại, bởi vì một số người ở đây được học tập kỹ lưỡng về hạnh kiểm, vì thế, với luật lệ đã được huấn luyện, họ thực hành, có tâm khéo được định tĩnh.”

7. Song các trí nhân khéo luyện rèn
Ðể cho thiện hạnh mãi tăng thêm,
Chính nhờ đạo hạnh này thuần thục
Nên các tha nhân bước tiếp liền.

Câu chuyện 406

1069. Attānaṃ saṅkamaṃ katvā yo sotthiṃ samatārayi, kiṃ tvaṃ tesaṃ kimo tuyhaṃ honti ete mahākapi. 

1069. “Này khỉ chúa, ngài đã lấy bản thân làm thành cầu nối và giúp cho các con khỉ đến được sự an toàn. Ngài là gì của chúng? Chúng là gì của ngài?”

1. Chính thân ngài đã bắt ngang cầu khỉ
Cho cả đàn trốn thoát được bình an,
Này khỉ kia, ngài với chúng họ hàng,
Hay bọn chúng là gì ngài đó vậy?

1070. Rājāhaṃ issaro tesaṃ yūthassa parihārako, tesaṃ sokaparetānaṃ bhītānaṃ te arindama. 

1070. “Thưa đấng thuần hóa kẻ thù, thần là vua, là chúa tể của chúng, là người bảo vệ bầy khỉ, khi bầy khỉ bị ưu phiền vì sầu muộn và khiếp sợ đối với bệ hạ.

2. Tâu Ðại vương, tôi trông nom bọn ấy,
Là Hầu vương, tôi làm chủ cả đàn,
Khi bọn kia đầy rẫy nỗi kinh hoàng
Vì các vị, lòng lo buồn đau đớn.

1071. Ullaṅghayitvā attānaṃ vissaṭṭhadhanuno sataṃ, tato aparapādesu daḷhaṃ baddhaṃ latāguṇaṃ. 

1071. Khi bản thân đã buộc chặt sợi dây leo, rồi từ đó, ở những bước chân cuối cùng, thần đã nhảy xa tầm một trăm cây cung được duỗi thẳng.

3. Tôi nhảy qua một trăm tầm cung lớn
Ðược trải dài trên vị trí nằm ngang,
Rồi khi tôi đã buộc khúc tre non
Thật vững chắc ở quanh sườn tôi đó,

1072. Chinnabbhamiva vātena nunno rukkhaṃ upāgamiṃ, sohaṃ appabhavaṃ tassa sākhaṃ hatthehi aggahiṃ.

1072. Lao ra tựa như làn gió xé rách bầu không trung, thần đã tiến đến gần cây xoài. Trong lúc không với tới được cây xoài, thần đây đã dùng những bàn tay nắm lấy cành của cây ấy.

4. Muốn đến cây như vầng mây bão tố
Ðược cuồng phong thổi bạt cực kỳ nhanh,
Song mất đà, tôi chỉ đến đầu cành,
Cầm lấy nó, bàn tay tôi thật vững.

1073. Taṃ maṃ viyāyataṃ santaṃ sākhāya ca latāya ca, samanukkamantā pādehi sotthiṃ sākhāmigā gatā. 

1073. Trong khi thần đây được kéo thẳng ra ở giữa cành cây và sợi dây leo, các con khỉ đã đặt các bàn chân lên rồi lần lượt bước qua, và đã đi đến sự an toàn.

5. Khi tôi nằm trên cây treo lơ lửng
Buộc chặt vào cành với khúc tre non,
Bầy khỉ kia đã bước cả lưng còm,
Giờ đây chúng được an toàn thoát nạn.

1074. Taṃ maṃ na tapate baddho vadho me na tapessati, sukhamāharitaṃ tesaṃ yesaṃ rajjamakārayiṃ. 

1074. Việc bị trói buộc không làm cho thần đây bực bội, sự chết sẽ không làm thần nóng nảy, bởi vì thần đã thể hiện quyền cai trị đến những ai thì đã đem lại sự an lạc đến cho họ.

6. Tôi không sợ nỗi đau vì thiệt mạng,
Dẫu giam cầm tôi cũng chẳng đau buồn.
Khi bình an hạnh phúc với cả đàn,
Xưa bọn chúng, tôi đã từng cai trị.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada