1053. Tasmā tuleyya-m-attānaṃ sīlapaññāsutāmiva, gaṇaṃ vā parihare dhīro ekovāpi paribbaje ”ti.

1053. Vì thế, sau khi cân nhắc bản thân về giới, tuệ, và kiến thức, bậc sáng trí hoặc là nên cai quản hội chúng, hoặc là nên xuất gia, chỉ một mình.”

7. Vậy thì giới hạnh lẫn đa văn,
Tri kiến học hành, luyện bản thân,
Như thể vị hiền nhân độc trú,
Hoặc lo bảo vệ đám thân bằng.

1054. Dvāsattati gotama puññakammā vasavattino jātijaraṃ atītā, ayamantimā vedagū brahmapatti asmābhijappanti janā anekā. 

1054. “Thưa ngài Gotama, chúng tôi là bảy mươi hai người có nghiệp phước thiện, có khả năng vận dụng quyền lực, đã vượt khỏi sanh và già. Đây là trạng thái đã đạt được sự hiểu biết sâu sắc, là sự đạt đến bản thể cao thượng tối hậu. Những người cầu khẩn chúng tôi không phải là ít.”

1. Chúng tôi tất cả bảy mươi hai,
Chân chánh và cao cả tuyệt vời,
Sanh, lão chúng tôi đà giải thoát,
Cõi này là trí tuệ nhà trời,
Không Thiên giới khác cao hơn nữa,
Nhiều kẻ tán đồng quan điểm tôi.

1055. Appaṃ hi etaṃ na hi dīghamāyu yaṃ tvaṃ baka maññasi dīghamāyu, sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ āyuṃ pajānāmi tavāhaṃ brahme. 

1055. “Tuổi thọ này thật ngắn ngủi, chẳng có dài lâu, này Baka, còn ngươi lại nghĩ rằng tuổi thọ này là dài lâu. Này Phạm Thiên, Ta biết rõ (số năm) tuổi thọ của ngươi là một trăm ngàn nirabbudā.”[1]

[1] 1 nirabbudā là một con số lớn bằng 10 triệu lũy thừa 9, tức là con số 1 đi liền với 63 con số không (ND). 

2. Ðời ngài ngắn ngủi ở thiên đàng,
Tưởng đời trường thọ quả sai lầm,
Một trăm ngàn kiếp trôi qua mất,
Ta biết đời ngài quá rõ ràng.

1056. Anantadassī bhagavāhamasmi jātijaraṃ sokamupātivatto, kimme purāṇaṃ vatasīlavattaṃ ācikkha me taṃ yamahaṃ vijaññaṃ. 

1056. “Thưa đức Thế Tôn, Ngài nói là Ngài có tầm nhìn không giới hạn, và đã vượt thoát khỏi sanh, già, và sầu muộn. Vậy thì việc thực hành về giới và phận sự của tôi trong quá khứ là gì? Xin ngài hãy giải thích cho tôi để tôi có thể hiểu được điều ấy.”

3. Thế Tôn, trí tuệ tử vô cùng,
Sanh, lão, sầu nằm ở dưới chân:
Xưa đã tạo nên bao thiện nghiệp,
Thế Tôn cho đệ tử hay chăng?

1057. Yaṃ tvaṃ apāyesi bahū manusse pipāsite ghammani samparete, taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi.

1057. “Việc ngươi đã cho nước uống đến nhiều người bị khát, bị vật vã bởi sức nóng. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.

4. Xưa lấy nước ban phát những người
Lúc đang cơn khát sắp tàn hơi,
Dưới trời hạn hán như thiêu đốt,
Thiện nghiệp ngài qua đã mấy đời,
Ta biết là ta đều nhớ rõ,
Như vừa tỉnh giấc mộng mà thôi.

1058. Yaṃ eṇikūlasmiṃ janaṃ gahītaṃ amocayī gayhakanīyamānaṃ, taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi. 

1058. Việc ở bờ sông Eṇī, ngươi đã giải thoát dân chúng bị bắt giữ, trong khi những người bị cầm tù đang được dẫn đi. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.

5. Sông E-ni, thuở nọ bên bờ,
Ngài thả nhiều người được tự do,
Trong lúc bị giam cầm chặt chẽ,
Việc lành ngài tạo dẫu xa xưa,
Song ta biết rõ ta còn nhớ
Như thể mới vừa tỉnh giấc mơ.

1059. Gaṅgāya sotasmiṃ gahītanāvaṃ luddena nāgena manussakappā, amocayi tvaṃ balasā pasayha taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi.  

1059. Ở dòng sông Gaṅgā, ngươi đã giải thoát chiếc thuyền bị bắt giữ bởi con rồng dữ tợn, có ý định giết hại loài người, sau khi đã chế ngự nó bằng sức mạnh. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ. 

6. Ngày xưa trên bến nước sông Hằng,
Ngài cứu thuyền người nọ thoát thân,
Khi bị ác xà kia chụp lấy
Vì thèm thịt sống, khỏi tai ương,
Việc lành ngài tạo dầu xa lắc,
Ta nhớ rõ như tỉnh giấc nồng.

1060. Kappo ca te baddhacaro ahosiṃ sambuddhimantaṃ vatinaṃ amaññaṃ, taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi.

1060. Và ta đã là Kappa, người học trò hầu cận của ngươi. Ngươi đã nghĩ về ta rằng: ‘Người này có đầy đủ về sự hiểu biết và chu toàn về phận sự.’ Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.”

7. Ta chính Kap-pa, đệ tử ngài,
Trí đức ngài, ta biết rõ mười,
Thiện nghiệp ngài làm, ta nhớ kỹ.
Như là mới tỉnh giấc mơ thôi.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada