1046. Dadāmi te brāhmaṇa rohiṇīnaṃ gavaṃ sahassaṃ saha puṅgavena, ariyo hi ariyassa kathaṃ na dajjā sutvāna gāthā tava dhammayuttā ”ti.

1046. “Này Bà-la-môn, trẫm ban cho khanh một ngàn bò cái màu hung đỏ với một con bò mộng. Bởi vì là người thánh thiện, tại sao trẫm lại không ban tặng cho người thánh thiện, sau khi đã lắng nghe các kệ ngôn gắn liền với lý lẽ của khanh?”

7. Ngàn bò trẫm tặng Bà-la-môn,
Bó đỏ, thêm người hướng dẫn đường,
Nghe các nghiệp ngài đầy thánh thiện,
Trẫm nay phát khởi nghiệp hiền lương.

1047. Yattha verī nivasati na vase tattha paṇḍito, ekarattaṃ dirattaṃ vā dukkhaṃ vasati verisu. 

1047. “Kẻ thù cư ngụ ở nơi nào, người sáng suốt không nên sống ở nơi ấy, dầu là một đêm hoặc hai đêm sống một cách khổ sở giữa những kẻ thù.

1. Người trí không nên ở chốn nào
Cừu nhân cư trú, dẫu dài lâu,
Hay chỉ một, hai đêm cũng vậy,
Ðến gần sẽ gặp nỗi sầu đau.

1048. Diso ce lahucittassa posassa anuvidhiyyato, ekassa kapino hetu yūthassa anayo kato. 

1048. Thật vậy, kẻ thù là có tâm khinh suất đối với người hành xử đúng theo nó. Vì nguyên nhân của một con khỉ, sự bất hạnh đã xảy ra cho cả bầy.

2. Kẻ ngu là địch thủ cho ai
Vẫn trót tin lời nó nói sai:
Con khỉ ngu si đem đại họa
Cho bầy của nó thế mà thôi.

1049. Bālo ca paṇḍitamānī yūthassa parihārako, sacittassa vasaṃ gantvā sayethāyaṃ yathā kapi. 

1049. Và kẻ ngu, có sự tự mãn là sáng suốt, kẻ cai quản cả bầy, sau khi rơi vào quyền lực của tâm mình, kẻ này nằm dài (chết) giống như con khỉ.

3. Một kẻ ngu si đứng trưởng đoàn,
Vì kiêu căng muốn tỏ khôn ngoan,
Sẽ không khác khỉ này gây họa,
Mãi mãi đưa đường đến bại vong.

1050. Na sādhu balavā bālo yūthassa parihārako, ahito bhavati ñātīnaṃ sakuṇānaṃva cetako. 

1050. Kẻ ngu có sức mạnh làm kẻ cai quản cả bầy là không tốt, là không có lợi ích cho các thân quyến, tựa như con chim mồi đối với bầy chim.

4. Kẻ mạnh ngu si chẳng tốt lành,
Lãnh phần bảo vệ cả đàn mình,
Nó là tai họa cho đồng loại,
Chẳng khác chim mồi đáng hãi kinh.

1051. Dhīro ca balavā sādhu yūthassa parihārako, hito bhavati ñātīnaṃ tidasānaṃ va vāsavo.

1051. Và người sáng trí có sức mạnh làm người cai quản cả bầy là tốt lành, là có lợi ích cho các thân quyến, tựa như vị Đế Thích đối với chư Thiên cõi Tam Thập.

5. Trưởng đoàn hùng dũng trí khôn ngoan
Làm tốt để canh giữ cả đoàn,
Chẳng khác Ind-ra bên Hội chúng,
Là phần thưởng của các thân bằng.

1052. Yo ca sīlañca paññañca sutañcattani passati, ubhinnamatthaṃ carati attano ca parassa ca. 

1052. Và người nào nhìn thấy giới, tuệ, và kiến thức ở bản thân, (người ấy) thực hành sự tấn hóa cho cả hai, cho bản thân và cho người khác.

6. Người nào đủ giới hạnh hoàn toàn,
Trí tuệ tinh thông, học tập luôn,
Hành động người này đem phước lạc
Cho mình cùng với các tha nhân.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada