1039. Na paṇḍitā vettanam ādiyanti citrāhi gāthāhi subhāsitāhi, itopi te brahme dadantu vittaṃ ādāya taṃ gaccha sakaṃ niketan ”ti.

1039. “Các bậc sáng suốt không nhận lấy tiền thưởng công do các kệ ngôn hoa mỹ đã được khéo nói. Này Bà-la-môn, hãy để các ngài cho ông phần của cải này. Ông hãy cầm lấy phần ấy rồi đi về nhà của mình.”

9. Bậc trí không dùng vật cúng dâng
Chỉ vì các khúc kệ ca ngâm,
Tốt hơn, ta tặng luôn tiền ấy
Trước lúc lão về lại cố hương.

1040. Yeme ahaṃ na jānāmi aṭṭhisena vaṇibbake, te maṃ saṅgamma yācanti kasmā maṃ tvaṃ na yācasi. 

1040. “Thưa ngài Aṭṭhisena, có những người ăn mày mà trẫm không biết, những người ấy cầu xin sau khi gặp trẫm, tại sao ngài không cầu xin trẫm?”

1. At-thi, lắm kẻ đến mong cầu,
Cho dẫu họ xa lạ biết bao,
Lũ lượt xin ta ban thỉnh nguyện,
Còn ngài, không ước vọng, vì sao?

1041. Yācako appiyo hoti yācaṃ adadamappiyo, tasmāhantaṃ na yācāmi mā me viddesanā ahu.

1041. “Kẻ cầu xin không được yêu mến, kẻ không cho vật được cầu xin cũng không được yêu mến; chính vì lý do ấy, ta không cầu xin bệ hạ, chớ có ghét bỏ ta.”

2. Hai kẻ cầu ân, hoặc chối từ,
Thảy đều không đẹp ý bao giờ,
Ðấy là duyên cớ, xin đừng giận,
Khiến tiểu thần không thỉnh nguyện vua.

1042. Yo ce yācanajīvāno kāle yācaṃ na yācati, parañca puññā dhaṃseti attanāpi na jīvati. 

1042. “Người nào, nếu đang sinh sống bằng việc cầu xin, mà không cầu xin vật cần xin vào lúc hợp thời, người ấy khiến người khác tổn hại phước báu và cũng không tự mình nuôi sống.

3. Người nào kiếm sống khẩn cầu hoài,
Chẳng đến cầu ân lúc hợp thời,
Làm kẻ khác suy tàn đức độ,
Chính mình chẳng có kế sinh nhai.

1043. Yo ce yācanajīvāno kāle yācaṃ hi yācati, parañca puññaṃ labbheti attanāpi ca jīvati. 

1043. Người nào, nếu đang sinh sống bằng việc cầu xin, và cầu xin vật cần xin vào lúc hợp thời, người ấy khiến người khác đạt được phước báu và còn tự mình nuôi sống nữa.

4. Người nào kiếm sống, khẩn cầu hoài,
Thường đến cầu ân lúc hợp thời,
Làm kẻ khác tăng dần đức độ,
Chính mình cũng được kế sinh nhai.

1044. Na ve dissanti sappaññā disvā yācakamāgate, brahmacāri piyo mesi varataṃ bhaññamicchasi. 

1044. Quả thật, các bậc thiện trí không ghét bỏ sau khi nhìn thấy người ăn xin đã đi đến. Bậc thực hành Phạm hạnh được trẫm yêu mến. Ngài hãy nói lên điều ân huệ mà ngài ước muốn.

5. Bậc có trí không thấy hận sân,
Khi người lũ lượt đến cầu ân,
Nói đi, Thánh giả là thân hữu,
Ðiều ước ngài không thể lỗi lầm.

1045. Na ve yācanti sappaññā dhīro veditumarahati, uddissa ariyā tiṭṭhanti esā ariyānayācanā. 

1045. “Quả thật, các bậc thiện trí không cầu xin, người sáng trí có khả năng hiểu được. Các bậc Thánh đứng im lặng; đó là cách cầu xin của các bậc Thánh nhân.”

6. Bậc trí không hề thỉnh nguyện đâu,
Thế nhân phải biết rõ như sau:
Trí nhân thỉnh nguyện ngồi im lặng,
Như thế là người trí thỉnh cầu.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada