1032. “Āyura đã trả lời câu hỏi, rồi đến nhân vật Pukkusa, theo như cách Senaka đáp thì vượt qua tất cả các câu hỏi.”
7. Ày-ra giải đáp lời ta,
Thế rồi Hiền giả Puk-sa cũng vầy,
Lời Sen-ka quả thật hay,
Trong ba lời giải lời này tối ưu.
1033. Vibbhantacitto kupitindriyosi nettehi te vārigaṇā savanti, kiṃ te naṭṭhaṃ kiṃ pana patthayāno idhāgamā brahmaṇa iṅgha brūhi.
1033. “Này Bà-la-môn, ông có tâm bị tán loạn, có giác quan bị xáo trộn, các giọt nước mắt chảy ra từ hai con mắt của ông. Cái gì của ông đã bị mất mát? Giờ ông đang ước nguyện điều gì? Ông hãy đi đến đây. Nào, ông hãy nói.
1. Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền,
Nước mắt chảy là cớ hiển nhiên,
Lão mất gì, vào đây muốn kiếm
Thứ gì? Hãy nói rõ ngay liền.
1034. Mīyetha bhariyā vajato mamajja agacchato maraṇaṃ āha yakkho, etena dukkhena pavedhitosmi akkhāhi me senaka etamatthaṃ.
1034. “Người vợ của tôi sẽ chết nếu tôi về đến nhà hôm nay, nếu tôi không về thì cái chết sẽ có cho tôi, vị Dạ-xoa đã nói. Vì thế, tôi bị run sợ bởi nỗi khổ đau. Thưa ngài Senaka, xin ngài hãy giải thích cho tôi về sự việc này.”
2. Vợ chết, nếu tôi trở lại nhà,
Còn không, tôi sẽ hóa ra ma,
Ðiều này làm trái tim đau nhói,
Xin giải vấn đề, hỡi Sen-ka.
1035. Bahūni ṭhānāni vicintayitvā yamettha vakkhāmi tadeva saccaṃ, maññāmi te brāhmaṇa sattubhastaṃ ajānato kaṇhasappo paviṭṭho.
1035. “Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng về nhiều khía cạnh, ta sẽ nói chính xác bản thể thật của sự việc này. Này Bà-la-môn, ta nghĩ rằng cái túi da đựng bánh của ông, có con rắn độc màu đen đã bò vào mà ông không biết.3
. Suy xét mọi nghi hoặc trước tiên,
Nay ta tuyên bố sự đương nhiên:
La-môn, trong túi đồ ăn ấy
Ðã lẻn chui vào rắn hổ đen!
1036. Ādāya daṇḍaṃ parisumbha bhastaṃ passeḷamūgaṃ uragaṃ dvijivhaṃ, chindajja kaṅkhaṃ vicikicchitāni bhujaṅgamaṃ passa pamuñca bhastaṃ.
1036. Ông hãy cầm lấy cây gậy, rồi hãy đánh vào cái túi da. Ông hãy nhìn xem con rắn, loài có hai lưỡi, với miệng chảy nước dãi. Hôm nay, ông hãy cắt đứt nỗi phân vân và các sự hoài nghi. Ông hãy nhìn thấy con rắn, và ông hãy cởi bỏ cái túi da.”
4. Cầm gậy đập lên chiếc túi dày,
Im hơi, hai lưỡi chính con này,
Trí ông hết rối vì nghi hoặc,
Mở túi, rồi ông thấy rắn ngay!
1037. Saṃviggarūpo parisāya majjhe so brāhmaṇo sattubhastaṃ pamuñci, atha nikkhami urago uggatejo āsīviso sappo phaṇaṃ karitvā, suladdhalābhā janakassa rañño yo passati senakaṃ sādhupaññaṃ.
1037. “Ở giữa đám đông, với dáng vẻ bị chấn động, vị Bà-la-môn đã cởi bỏ cái túi da đựng bánh. Rồi con rắn đã bò ra, có uy lực hung bạo, con rắn có nọc độc đã ngóc đầu lên.
Sự lợi ích khéo đạt được đã có cho đức vua Janaka, đức vua là người nhìn thấy vị Senaka có trí tuệ hoàn hảo!”
5. Kinh hãi, lão ra giữa đám đông,
Mở dây chiếc túi đựng đồ ăn,
Một con rắn hổ bò hung dữ,
Kiêu hãnh giương cao cả chiếc mồng!
7. Chúa thượng Jan-ka, lợi lạc thay, Ðại vương có bậc trí nhân này.
1038. Vivattacchaddo nusi sabbadassī ñāṇaṃ nu te brahmaṇa bhiṃsarūpaṃ, imāni me sattasatāni atthi gaṇhāhi sabbāni dadāmi tuyhaṃ, tayā hi me jīvitamajja laddhaṃ athopi bhariyāyamakāsi sotthiṃ.
1038. “Có phải ngài có màn che được khép lại và có cái nhìn toàn diện? Thưa ngài Bà-la-môn, phải chăng trí tuệ của ngài có vẻ kinh khiếp? Có bảy trăm đồng tiền này là của tôi,
xin ngài hãy nhận lấy, tôi biếu ngài tất cả. Bởi vì mạng sống của tôi đạt được ngày hôm nay là do ngài, và ngài cũng đã tạo sự an toàn cho vợ tôi nữa.”
Trí ngài đáng sợ, hồ nghi biến,
Trước mắt ngài nhìn thấu suốt ngay.
8. Này đây có cả bảy trăm đồng,
Xin nhận lấy ngay vật hiến dâng,
Vì chính nhờ ngài, tôi được sống
Cùng nguồn an lạc của thân nhân.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada