1015. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātihi, bharissaṃ mātāpitaro vuddhe giridarīsaye ”ti.
1015. “Tương tự như vậy, này người thợ săn, mong ông được hạnh phúc cùng với tất cả thân quyến. Tôi sẽ phụng dưỡng mẹ và cha đã già ngụ ở hang núi.”
7. Hỡi thợ săn cùng cả họ hàng,
Cầu mong hạnh phúc đến nhà chàng!
Ta về với mẹ cha già yếu,
Chăm sóc hai thân ở dưới hang.
1016. Anutīracāri bhaddante sahāyamanudhāva maṃ, mahā me gahito maccho so maṃ harati vegasā.
1016. “Này bạn Anutīracārī đáng kính, bạn hãy chạy đến chỗ tôi. Tôi đã bắt được con cá lớn, nó lôi tôi đi bằng sức mạnh.”
1. Này bạn A-nu, chạy tới ngay,
Ta cầu khẩn bạn giúp ta đây,
Ta vừa bắt cá này to lớn,
Song nó kéo ta mạnh thế này!
1017. Gambhīracāri bhaddante daḷhaṃ gaṇhāhi thāmasā, ahaṃ taṃ uddharissāmi supaṇṇo uragammiva.
1017. “Này bạn Gambhīracārī đáng kính, bạn hãy nắm chặt bằng sức lực. Tôi sẽ kéo nó lên tựa như con linh điểu chộp lấy con rắn.”
2. Gam-bhi, bạn tốt số dường nào!
Móng vuốt bạn cầm vững mạnh sao!
Chẳng khác đại bàng câu rắn nước,
Ta câu cá nọ nhấc lên cao!
1018. Vivādo no samuppanno dabbhapuppha suṇohi me, samehi medhagaṃ samma vivādo vūpasammataṃ.
1018. “Sự tranh cãi đã sanh khởi giữa chúng tôi, này ông bạn có bộ lông màu bông hoa cỏ, xin hãy lắng nghe tôi. Này bạn, xin bạn hãy làm lắng dịu sự gây gỗ. Mong rằng sự tranh cãi được lặng yên.”
3. Một cuộc tranh giành giữa chúng tôi
Tôn ông mang áo xám kia ôi!
Xin ông ổn định dùm tranh chấp
Cho thật công bằng giữa cả đôi.
1019. Dhammaṭṭhohaṃ pure āsiṃ bahu aṭṭaṃ me tīritaṃ, samemi medhagaṃ sammā vivādo upasammatu.
1019. “Trước đây, ta đã là người duy trì công lý, nhiều vụ kiện đã được ta phân xử. Ta sẽ làm lắng dịu sự gây gỗ. Sự tranh cãi hãy được lặng yên.
4. Ta đã giải phân lắm cạnh tranh
Làm xong sứ mạng thật hòa bình,
Chư Tôn hãy để điều tranh chấp
Tại hạ công bình ổn định nhanh.
1020. Anutīracārī naṅguṭṭhaṃ sīsaṃ gambhīracārino, athāyaṃ majjhimo khaṇḍo dhammaṭṭhassa bhavissati.
1020. Anutīracārī là cái đuôi, cái đầu thuộc về Gambhīracārī, còn phần thân ở giữa này thì sẽ thuộc về người duy trì công lý.”
5. A-nu, hãy lãnh phần đuôi,
Còn chú Gam-bhì, thủ cấp rồi,
Phần giữa dành cho ta xử kiện,
Trả công xứng đáng thế này thôi!
1021. Cirampi bhakkho abhavissa sace na vivademase, asīsakaṃ anaṅguṭṭhaṃ sigālo harati rohitaṃ.
1021. “Nếu chúng ta không tranh cãi thì có thể có thức ăn cũng được lâu. Con chó rừng tha đi phần thân cá hồi, bỏ lại đầu, bỏ lại đuôi.”
6. Nếu không tranh cãi chuyện vừa rồi,
Chắc chắn là vừa đủ cá thôi,
Nay bị chó rừng mang hết thịt,
Chỉ còn để lại khúc đầu đuôi!
1022. Yathāpi rājā nandeyya rajjaṃ laddhāna khattiyo, evāhamajja nandāmi disvā puṇṇamukhaṃ patiṃ.
1022. “Cũng giống như vị vua dòng Sát-đế-lỵ có thể vui mừng sau khi tiếp thu vương quốc, tương tự như vậy, thiếp hôm nay vui mừng sau khi nhìn thấy chồng với miệng ngậm đầy ắp (cá tươi).
7. Như vua mãn nguyện được cầm quyền
Thâu gọn giang sơn trị nước yên,
Mãn nguyện ta nhìn chàng trở lại,
Ngậm đầy trong mỏ cá tươi nguyên!
1023. Kathannu thalajo santo udake macchaṃ parāmasi, puṭṭho me samma akkhāhi kathaṃ adhigataṃ tayā.
1023. Trong khi là loài sanh ra ở đất liền, làm thế nào chàng đã bắt được cá ở trong nước? Chàng ơi, được thiếp hỏi, xin chàng hãy giải thích, làm thế nào chàng đã đạt được cá?”
8. Chàng vốn sinh ra ở đất bằng,
Làm sao bắt cá giữa dòng sông?
Phu quân, chàng lập kỳ công ấy,
Cho biết vì sao, thiếp ước mong.
1024. Vivādena kisā honti vivādena dhanakkhayā, jīnā uddā vivādena bhuñja māyāvi rohitaṃ.
1024. “Chúng trở nên gầy ốm vì tranh cãi, chúng có tài sản bị cạn kiệt vì tranh cãi, hai con rái cái bị thua thiệt vì tranh cãi. Này nàng Māyāvī, nàng hãy ăn con cá hồi.”
9. Vì cạnh tranh nên chúng yếu dần,
Cạnh tranh làm chúng phải suy tàn,
Cạnh tranh, rái cá mất phần hưởng,
Vì vậy Mà-yà được miếng ngon.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada