1001. Nihīyati puriso nihīnasevī na ca hāyetha kadāci tulyasevī, seṭṭhamupanamaṃ udeti khippaṃ tasmā attano uttariṃ bhajethā ”ti.

1001. “Người có sự giao hảo với kẻ hạ liệt thì bị tiêu hoại, có sự giao hảo với người tương đương thì không bao giờ bị ruồng bỏ, có sự hạ mình với vị cao thượng thì sẽ tiến bộ nhanh chóng; vì thế, nên quan hệ với người trội hơn bản thân mình.”

7. Ai theo bọn hạ tầng
Chính nó bị bỏ ruồng;
Ai thân người đồng đẳng
Chẳng hề bị phụ phàng;
Ai phục người tối thượng
Sẽ mau chóng thịnh hưng.
Vậy tìm người ưu việt
Ðể có chốn nương thân.

1002. Rājā te bhattaṃ pāhesi sucimaṃsūpasecanaṃ, makhādevasmiṃ adhivatthe ehi nikkhama bhuñjassu.

1002. “Đức vua đã bảo đưa đến cho ngài bữa ăn có trộn lẫn thịt tinh khiết. Nếu Makhādeva ở nơi đây, xin ngài hãy đến, hãy đi ra, và thọ thực.”

1. Vua đã gửi ngài một bát cơm,
Lại thêm thịt nấu thật ngon thơm,
Ma-kha có ở nhà không đấy,
Xin hãy bước ra nhận để ăn!

1003. Ehi māṇava orena bhikkhamādāya sūpitaṃ, tvañca māṇava bhikkhā ca ubho bhakkhā bhavissatha.

1003. “Này người thanh niên, hãy cầm lấy thức ăn có canh đi qua bên này. Này người thanh niên, ngươi và thức ăn, cả hai đều sẽ là bữa ăn (của ta).”

2. Hãy bước vào trong, hỡi cậu trai,
Với cao lương mỹ vị trên tay,
Cả cơm cùng với thân người nữa,
Này cậu, ta xơi tuyệt lắm thay!

1004. Appakena tuvaṃ yakkha thullamatthaṃ jahissasi, bhikkhaṃ te nāharissanti janā maraṇasaññino.

1004. “Này Dạ-xoa, vì cái nhỏ mà ngài sẽ từ bỏ lợi ích lớn. Những người nghĩ đến cái chết sẽ không mang thức ăn đến cho ngài.

3. Dạ-xoa sẽ mất vật to hơn
Ðổi lấy vật này bé con con.
Tất cả mọi người đều sợ chết,
Chẳng còn ai đến biếu cao lương!

1005. Laddhāyaṃ yakkha tava niccabhikkhaṃ suciṃ paṇītaṃ rasasā upetaṃ, bhikkhañca te āhariyo naro idha sudullabho hohiti khādite mayi. 

1005. Này Dạ-xoa, vật đã nhận được này là thức ăn thường kỳ, tinh khiết, hảo hạng, đầy đủ hương vị của ngài. Và nếu tôi bị ăn thịt, thì người mang thức ăn đến đây cho ngài sẽ khó kiếm vô cùng.”

4. Vậy ngài sẽ được cấp lương cao
Tinh sạch nêm gia vị ngọt ngon.
Song nếu ăn ta, thì khó kiếm
Một người nào khác đến đem cơm.

1006. Mamesaṃ sutano attho yathā bhāsasi māṇava, mayā tvaṃ samanuññāto sotthiṃ passasi mātaraṃ.

1006. “Này Sutana, điều ấy là lợi ích của ta giống như ngươi nói. Này người thanh niên, ngươi được ta cho phép, ngươi sẽ gặp lại mẹ một cách an toàn.

5. Su-ta-na, quả thật đúng thay
Mối lợi ta như cậu tỏ bày,
Hãy trở lại thăm hiền mẫu nhé,
Ta cho phép cậu bước đi ngay.

1007. Khaggaṃ chattañca pātiñca gacchevādāya māṇava, sotthiṃ passatu te mātā tvañca passāhi mātaraṃ. 

1007. Này người thanh niên, ngươi hãy cầm lấy gươm, lọng, và cái đĩa, rồi đi ngay. Mẹ của ngươi hãy gặp lại ngươi, và ngươi hãy gặp lại người mẹ một cách an toàn.”

6. Lấy gươm, lọng, bát, cậu thanh niên,
Hãy nhắm đường đi, cất bước liền,
Thăm mẹ hiền trong niềm phấn khởi,
Cho bà sống hạnh phúc bình yên.

1008. Evaṃ yakkha sukhī hohi saha sabbehi ñātihi, dhanañca me adhigataṃ rañño ca vacanaṃ katan ”ti.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada