969. Neva taṃ upajīvāma napi te bhatakamhase, tvameva bhikkhu jāneyya yena gaccheyya suggatin ”ti.

969. “Chúng tôi không sống gần ông, và cũng không phải là người làm thuê cho ông. Này tỳ khưu, chính ông nên biết lối nào có thể đi đến chốn an vui.”

Ta chẳng sống đây phụng sự ngài,
Chúng ta không ở mướn cho ai,
Xin ngài tự kiếm đường đi tới
Hạnh phúc tối cao giữa cõi đời.

970. Susukhaṃ vata jīvanti ye janā vighāsādino, diṭṭheva dhamme pāsaṃsā samparāye ca suggati.

970. “Những người nào là những người ăn vật thực còn thừa thật sự sống vô cùng thoài mái, họ được sự khen ngợi ngay trong thời hiện tại và chốn an vui trong thời vị lai.”

Hạnh phúc là ai sống giữa đời
Bằng tàn dư bố thí mà thôi,
Ðược người tán thán trên trần thế,
Số phận đời sau: lạc cõi trời.

971. Sukassa bhāsamānassa na nisāmetha paṇḍitā, idaṃ suṇātha sodariyā amhe vāyaṃ pasaṃsati.

971. “Các vị sáng suốt không để tâm đến con két đang nói tiếng người. Này các anh em, hãy lắng nghe con chim này. Nó khen ngợi chúng ta đấy.”

Bậc trí phải chăng nên lắng tai
Khi Anh vũ nói giọng như người,
Hãy nghe, các bạn, chim ca tụng
Bọn chúng ta đây, rõ tuyệt vời!

972. Nāhaṃ tumhe pasaṃsāmi kuṇapādā suṇātha me, ucchiṭṭhabhojino tumhe na tumhe vighāsādino.

972. “Tôi không khen ngợi các người, này những kẻ ăn thịt xác chết, hãy lắng nghe tôi. Các người là những kẻ ăn thức ăn bị bỏ đi, các người không phải là những người ăn vật thực còn thừa.”

Chẳng phải ta ca tụng các thầy,
Bọn ăn xác chết, hãy nghe đây:
Các thầy ăn món đồ thừa thải,
Chẳng phải tàn dư bố thí này.

973. Sattavassā pabbajitā mejjhāraññe sikhaṇḍino, vighāseneva yāpento mayañce bhoto gārayhā, ke nu bhoto pasaṃsiyā.

973. “Là những người đã xuất gia bảy năm, ở giữa rừng, có để chỏm tóc, đang nuôi sống chỉ bằng vật thực còn thừa, nếu chúng tôi đáng bị chê trách đối với ngài, vậy thì đối với ngài, những ai đáng được khen ngợi?”

Xuất thế bảy năm, cạo tóc đen,
Nơi đây ta sống tháng ngày liền,
Ăn đồ tàn thực, sao chim trách,
Vậy thế ai người thật đáng khen?

974. Tumhe sīhānaṃ vyagghānaṃ vāḷānañcāvasiṭṭhakaṃ, ucchiṭṭheneva yāpentā maññivhā vighāsādino.

974. “Các người ăn vật còn sót lại của các con sư tử, của các con hổ, và của các loài thú dữ, trong khi nuôi sống chỉ bằng thức ăn bị bỏ đi, các người tưởng rằng mình là những người ăn vật thực còn thừa.”

Món thừa sư, hổ, thú săn mồi,
Là thứ cần dùng của các người,
Quả thật chúng là đồ phế thải
Dù người gọi "chỉ tàn dư thôi".

975. Ye brāhmaṇassa samaṇassa aññassa ca vaṇibbino, datvāna sesaṃ bhuñjanti te janā vighāsādino ”ti.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada