962. Akkodhano niccapasannacitto sabbātithīyācayogo bhavitvā, nihacca mānaṃ abhivādayissaṃ sutvāna devinda subhāsitānī ”ti.

962. “Thưa vị Chúa của chư Thiên, sau khi lắng nghe những lời khéo nói, trẫm sẽ không có sự giận dữ, thường xuyên có tâm tịnh tín, sau khi đáp ứng sự yêu cầu của tất cả những người khách lạ, trẫm sẽ dẹp bỏ sự ngã mạn, và sẽ chí thành đảnh lễ.

Tư tưởng mang đầy đủ phước ân,
Từ nay lòng dạ trẫm ly sân,
Lắng tai nghe ngoại nhân cầu thỉnh,
Trẫm nhận lời khuyên nhủ chánh chân,
Trẫm sẽ diệt tan lòng ngã mạn,
Phụng thờ Thiên chủ, dạ tôn sùng.

963. Yametaṃ vārijaṃ pupphaṃ adinnaṃ upasiṅghasi, ekaṅgametaṃ theyyānaṃ gandhatthenosi mārisa.

963. “Ông hít ngửi đóa hoa sen này còn chưa được cho đến ông. Việc này là một tội trộm cắp. Này ông, ông là kẻ trộm cắp hương thơm.”

Ngài không được phép ngửi hương hoa,
Dù chỉ một hoa mới nở ra,
Ðó thật là hình thức đạo tặc,
Sa-môn, ngài trộm ngửi hương hoa.

964. Na harāmi na bhañjāmi ārā siṅghāmi vārijaṃ, atha kena nu vaṇṇena gandhatthenoti vuccati.

964. “Tôi không lấy đi, không bẻ gãy, tôi hít ngửi bông hoa từ xa, vậy thì với lý do gì mà gọi là ‘kẻ trộm cắp hương thơm’?

Ta chẳng hái, không bẻ gãy hoa,
Mùi hương ta ngửi tự đằng xa,
Ta không thể bảo nào duyên cớ
Nàng nói ta đang ngửi trộm hoa.

965. Yoyaṃ bhisāni khaṇati puṇḍarīkāni bhañjati, evaṃ ākiṇṇakammanto kasmā eso na vuccati.

965. Người đào bới các củ sen, bẻ gãy các bông hoa sen là kẻ có việc làm vung vãi như vậy, tạo sao kẻ ấy lại không bị nói đến?”

Kẻ nọ đang đào bới củ sen,
Phá thân cây gãy, đó nhìn xem,
Sao nàng không bảo cách hành động
Kẻ ấy là bừa bãi, thấp hèn?

966. Ākiṇṇaluddo puriso dhāticeḷaṃva makkhito, tasmiṃ me vacanaṃ natthi tañca arahāmi vattave.

966. “Người tàn bạo dẫy đầy tội lỗi bị hoen ố tựa như vải che thân của người vú em. Ta không có lời nói nào cho kẻ ấy, và ta dành để nói cho ông.

Những người phóng túng sống buông lơi,
Như áo vú em, đáng chán rồi,
Ta chẳng nói năng gì kẻ ấy,
Song ta chiếu cố nói ngài thôi.

967. Anaṅgaṇassa posassa niccaṃ sucigavesino, vāḷaggamattaṃ pāpassa abbhāmattaṃva khāyati.

967. Đối với người không có ô nhiễm, thường xuyên tầm cầu sự thanh tịnh, thì việc xấu xa bằng đầu cọng lông được xem như là đám mây đen lớn.”

Khi bỏ dục tham của thế nhân,
Và đi tìm cách tịnh thân tâm,
Tội dù chỉ nhỏ như đầu tóc
Chẳng khác trên trời đám hắc vân!

968. Addhā maṃ yakkha jānāsi atho maṃ anukampasi, punapi yakkha vajjāsi yadā passasi edisaṃ.

968. “Thật vậy, này Dạ-xoa, ngài hiểu biết về tôi, vậy xin ngài hãy thương xót đến tôi. Thêm nữa, này Dạ-xoa, khi nào ngài nhìn thấy việc như thế này, xin ngài hãy lên tiếng.”

Hiển nhiên Thần nữ hiểu tinh tường,
Nên với ta, nàng đã đoái thương,
Nếu thấy ta rày còn tái phạm,
Xin nàng nói nữa, khẩn cầu nàng.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada