949. Kāko tadā devadatto ahosi māro pana kaṇhasappo ahosi, ānandabhaddo kakkaṭako ahosi ahaṃ tadā brāhmaṇo homi satthā ”ti.

 949. “Khi ấy, con quạ đã là Devadatta, còn Ma Vương đã là con rắn độc màu đen, Ānanda hiền thiện đã là con cua, khi ấy, ta đã là vị đạo sư Bà-la-môn.”

Con Rắn hổ là chính Ác ma,
Đề-bà-đạt, ấy Quạ đen kia,
A-nan thiện hạnh là Cua nọ,
Ðiền chủ La-môn ấy chính Ta.

950. Sakuṇo mayhako nāma girisānudarīcaro, pakkaṃ pipphalim āruyha mayhaṃ mayhanti kandati.

950. “Loài chim tên Mayhaka có sự sinh sống ở hang động của đồi núi. Nó đậu ở cây pipphalī có trái chín và kêu khóc ‘mayhaṃ,mayhaṃ.’[1]

[1] Loài chim này có tiếng kêu là ‘mayhaṃ, mayhaṃ’ nên được đặt tên là Mayhaka (JaA. iii, 302). Từ Pāḷi ‘mayhaṃ’ có nghĩa là ‘của tôi.’

Có con chim được gọi May-ha,
Nó sống trong hang dưới núi xa,
Trái chín trên cây sung cổ thụ,
"Của ta, ta nữa", nó kêu la.

951. Tassevaṃ vilapantassa dijasaṅghā samāgatā, bhutvāna pipphaliṃ yanti vilapitveva so dijo.

951. Trong khi nó đang kêu than như vậy, có bầy chim đã tụ tập lại. Sau khi ăn xong, chúng bay đến cây pipphalī khác. Con chim ấy chỉ có kêu than.

Bầy chim kia lúc nó kêu vang,
Tụ tập chung quanh cả một đàn,
Ăn trái thỏa lòng tuy thấy thế,
May-ha vẫn cất tiếng kêu than.

952. Evameva idhekacco saṅgharitvā bahuṃ dhanaṃ, nevattano na ñātīnaṃ yathodhiṃ paṭipajjati.

952. Tương tự y như vậy, ở đây, một người nào đó, sau khi gom góp được nhiều tài sản, nhưng đối với bản thân cũng như đối với các thân quyến lại không phân chia theo từng phần phù hợp để sử dụng.

Cũng vậy, người kia lắm bạc vàng,
Nhưng không chia sẻ giữa thân bằng,

953. Na so acchādanaṃ bhattaṃ na mālaṃ na vilepanaṃ, anubhoti sakiṃ kiñci na saṅgaṇhāti ñātake.

953. Người ấy không một lần hưởng thụ bất cứ vật gì về y phục, vật thực, tràng hoa, dầu thoa, và cũng không giúp đỡ cho các thân quyến.

Cũng không thọ hưởng lần nào cả
Y phục và luôn các thức ăn,Hương liệu cùng vòng hoa rực rỡ,
Cũng không ân huệ với thân nhân.

954. Tassevaṃ vilapantassa mayhaṃ mayhanti rakkhato, rājāno athavā corā dāyādāyeva appiyā, dhanamādāya gacchanti vilapitveva so naro.

954. Tương tự như vậy đối với người ấy, trong lúc gìn giữ và đang kêu than ‘của tôi, của tôi,’ các vị vua hoặc các kẻ trộm cướp, ngay cả những người thừa kế không được yêu mến đã đoạt lấy tài sản rồi ra đi. Người ấy chỉ có kêu than."

Của ta, ta mãi", kêu rền rĩ,
Nó giữ kho tàng thỏa dạ tham.Vua chúa cường gian, các đứa con
Chỉ mong sao nó sớm từ trần,
Cướp tài sản nó, trong khi ấy
Kẻ bủn xỉn kêu khóc tiếc than.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada