941. Nandanti sarīraghātino na ca nandanti sarīradhārino, puṇṇāya ca puṇṇamāsiyā ramamānāva jahanti jīvitan ”ti. 

941. Những kẻ có sự hủy hoại mạng sống vui mừng, và những kẻ có sự duy trì mạng sống không vui mừng. Những người thật sự vui thích với sự đầy đủ về giới hạnh buông bỏ mạng sống vào những ngày trai giới.” 

Người không sinh mạng là vui,
Người còn sinh mạng bời bời lo toan.
Con người phải chết, chớ buồn,
Hãy vui như hội trăng tròn quanh năm.

942. Siṅgī migo āyatacakkhunetto aṭṭhittaco vārisayo alomo, tenābhibhūto kapaṇaṃ rudāmi hare sakhā kissa nu maṃ jahāsi.

942. “Con vật có càng, có mắt lồi, có lớp vỏ cứng, sống ở trong nước, không có lông. Bị nó chế ngự, tôi khóc lóc thảm thương. Nè, này bạn, tại sao bạn lại bỏ rơi tôi?”

Một chú càng vàng với mắt lồi,
Ở hồ, trần trụi, bọc xương mai,
Chụp tôi, nghe tiếng tôi kêu thét
Sao bỏ bạn thân quý mến ngài?

943. So passasanto mahatā phaṇena bhujaṅgamo kakkaṭamajjhapatto, sakhā sakhāraṃ paritāyamāno bhujaṅgamaṃ kakkaṭako gahesi.

943. “Là bạn bè đang bảo vệ bạn bè, con rắn ấy, trong lúc thở phì phì bằng cái mang lớn, đã lao đến con cua. Con cua đã kẹp lấy con rắn.”

Con Rắn bỗng nhào lên chú Cua,
Nó không muốn bỏ bạn bây giờ:
Rắn giương mào rộng vừa lao đến,
Cua tấn công ngay chú Rắn bò.

944. Na vāyasaṃ no pana sapparājaṃ ghāsatthiko kakkaṭako adeyya, pucchāmi taṃ āyatacakkhunetta atha kissa hetumha ubho gahītā.

944. “Con cua đã kẹp lấy con quạ và luôn cả con rắn chúa không phải vì mục đích thức ăn. Này con thú có mắt lồi, ta hỏi ông rằng: Vì nguyên nhân gì mà cả hai chúng tôi bị ông kìm kẹp?”

Chẳng phải vì lo kiếm miếng mồi
Mà Cua bắt Rắn, Quạ trên trời,
Mắt lồi hãy nói cho tôi biết
Sao chú lại kềm kẹp chúng tôi?

945. Ayaṃ puriso mama atthākāmo yo maṃ gahetvāna dakāya neti, tasmiṃ mate dukkhamanappakaṃ me ahañca eso ca ubho na homa.

945. “Người này có sự mong muốn điều lợi ích cho tôi; vị này đã vớt tôi lên và đưa ra khỏi hồ nước. Nếu vị ấy chết đi, khổ đau sẽ có cho tôi không phải là ít. Tôi và vị này không phải là hai người.

Ngài đem ta tự dưới ao kia,
Bày tỏ ân cần, quý mến ta,
Nếu chết, thời ta đây khổ não,
Ngài và ta, chỉ một thôi mà.

946. Mamañca disvāna pavaḍḍhakāyaṃ sabbo jano hiṃsitumeva micche, sāduñca thullañca muduñca maṃsaṃ kākāpi maṃ disvā viheṭhayeyyuṃ.

946. Và sau khi nhìn thấy tôi có thân thể phát triển, tất cả mọi người đều mong muốn giết chết tôi ngay, (nghĩ rằng) thịt con cua này ngọt, béo, và mềm mại. Các con quạ cũng vậy, sau khi nhìn thấy, cũng sẽ hãm hại tôi.”

Thấy ta nay đã lớn lên dần,
Ai nấy đều mong giết hưởng phần:
Cua mập ngọt ngon đầy mỹ vị,
Nhìn ta, Quạ muốn xé tan thân.

947. Sace tassa hetumha ubho gahītā uṭṭhātu poso visamācamāmi, mamañca kākañca pamuñca khippaṃ pure visaṃ gāḷhamupeti maccaṃ.

947. “Nếu cả hai chúng tôi bị ông kìm kẹp vì nguyên nhân người ấy, thì hãy giải độc cho người ấy, tôi sẽ hút ra chất độc. Và hãy lập tức phóng thích tôi và con quạ, trước khi chất độc ngấm sâu vào trong người ấy.”

Nếu Cua kẹp Rắn, Quạ vì ngài,
Ta sẽ rút chất độc ấy thôi,
Ngài tỉnh dậy, mau tha Rắn, Quạ,
Thấm sâu chất độc, ắt tàn đời.

948. Sappaṃ pamokkhāmi na tāva kākaṃ paṭibaddhako hohiti tāva kāko, purisañca disvāna sukhiṃ arogaṃ kākaṃ pamokkhāmi yatheva sappaṃ.

948. “Tôi sẽ phóng thích con rắn, nhưng con quạ thì chưa; hãy để con quạ là vật được giữ lại làm con tin. Và sau khi nhìn thấy người ấy khỏe khoắn, không bệnh, tôi sẽ phóng thích con quạ, giống y như con rắn vậy.”

Ta thả Rắn, không thả Quạ đây,
Con tin là Quạ buộc nơi này,
Ta không thả nó đi nơi khác,
Cho đến khi an ổn với ngài.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada