904. Attanā kurute lakkhiṃ alakkhiṃ kurutattanā, na hi lakkhiṃ alakkhiṃ vā añño aññassa kārako ”ti.
904. Mỗi người tự bản thân tạo ra sự may mắn, tự bản thân tạo ra sự bất hạnh, bởi vì không ai là người tạo ra may mắn hay bất hạnh cho người khác.”
Họa, phúc nghiệp riêng mỗi bản thân,
Chẳng ai tạo nghiệp của tha nhân,
Một người không thể gây tai họa,
Hạnh phúc cho ai ở cõi trần.
905. Sucittapattacchadana tambacūḷa vihaṅgama, oroha dumasākhāya mudhā bhariyā bhavāmi te.
905. “Hỡi loài chim có lớp vỏ bọc bằng lông với màu sắc sặc sỡ, có mồng đỏ chói, từ nơi cành cây chàng hãy đáp xuống, thiếp sẽ là người vợ không sính lễ của chàng.”Chim có cánh hồng sáng rực sao,
Mồng cao rũ xuống đẹp dường bao,
Thiếp nay ước muốn nên chồng vợ,
Bỏ cây xuống với thiếp đây nào!
906. Catuppadī tvaṃ kalyāṇi dvipadāhaṃ manorame, migī pakkhī asaṃyuttā aññaṃ pariyesa sāmikaṃ.
906. “Này người đẹp, nàng có bốn chân. Này cô nàng quyến rũ, ta có hai chân. Loài thú và loài chim không kết hợp được, nàng hãy tìm kẻ khác làm chồng.”
Cô nàng quyến rủ, đẹp xinh ôi!
Nàng có bốn chân, tôi chỉ hai,
Chim, thú không bao giờ kết hợp,
Hãy tìm chàng khác thật cân đôi.
907. Komārikā te hessāmi mañjukā piyabhāṇinī, vinda maṃ ariyena vedena sāvayā maṃ yadicchasi.
907. “Thiếp sẽ là người vợ trinh nguyên của chàng, có giọng nói ngọt ngào, có lời nói đáng yêu. Chàng hãy tiếp nhận thiếp với niềm vui thánh thiện, nếu chàng muốn chàng có thể tuyên bố thiếp là nữ tỳ.”
Thiếp dâng chàng sắc đẹp thanh xuân,
Lời nói dịu êm nhã nhặn luôn,
Làm vợ quý yêu hay thị nữ,
Tùy nghi đối xử hợp phu quân.
908. Sakuṇādini lohitape cori kukkuṭapothini, na tvaṃ ariyena vedena mamaṃ bhattāramicchasi.
908. “Này cô nàng hút máu các loài chim, này nữ tặc, này cô nàng sát hại gà trống, nàng muốn ta làm chồng không vì niềm vui thánh thiện.”
Con Mèo hút máu họ nhà Gà,
Cướp giết bạo tàn thật xấu xa,
Vợ quý ư? Không hề quý trọng
Trong lòng Mèo lúc tán dương ta.
909. Evampi caturā nārī disvāna pavaraṃ naraṃ, nenti saṇhāhi vācāhi biḷārī viya kukkuṭaṃ.
909. “Cũng tương tự như vậy, những người nữ khôn lanh, sau khi nhìn thấy người nam cao quý, thì dụ dỗ bằng những lời nói mềm mỏng, ví như con mèo cái dụ dỗ con gà trống.
Vậy khi chúng thấy một anh hùng,
Cả bầy nhi nữ thật tinh khôn
Cố tìm cách để hòng lôi cuốn.
(Cứ xem Mèo cái với Kê vương).
910. Yo ve uppatitaṃ atthaṃ na khippamanubujjhati, amittavasamanveti pacchā ca-m-anutappati.
910. Thật vậy, người nào không mau chóng nhận biết sự việc đã nảy sanh, rồi đi theo sự khống chế của kẻ thù, về sau sẽ hối tiếc.
Ai không đối phó trước nguy nan
Đành phải ngã dài ở dưới chân
Cúi mặt phục tùng ngay địch thủ,
Trong niềm uất hận lẫn đau buồn.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada