880. Etadeva hi me nāmaṃ yaṃ nāmasmiṃ rathesabha, āgamehi mahārāja pitaraṃ āmantayāmahan ”ti.

880. “Tâu đấng thủ lãnh xa binh, chính tiếng ấy đúng là tên của thiếp, thiếp có tên ấy. Tâu đại vương, xin bệ hạ hãy đi dến gặp cha, thiếp xin thỉnh mời.”

Tâu Ðại vương, vừa nói ra tên thiếp,
Hãy đến ngay, cha thiếp nhận cầu hôn.

Câu chuyện 380

881. Na me rucci migālopa yassa te tādisā gati, atuccaṃ tāta patasi abhūmiṃ tāta sevasi.

881. “Này Migālopa, đường bay của con như thế ấy không làm cho cha ưa thích. Này con, con bay quá cao. Này con, con lai vãng vùng ở ngoài địa phận.

Ðường con bay bổng, hỡi con thân,
Cha thấy chúng sao thật bất an,
Con vụt lên cao xa quá mức,
Vượt vùng ta sống thật an toàn.

882. Catukkaṇṇaṃva kedāraṃ yadā te paṭhavī siyā, tato tāta nivattassu māssu etto paraṃ gami.

882. Khi nào đối với con, quả đất trở thành tựa như khoảnh đất hình vuông, này con, từ nơi ấy con nên quay trở lại, chớ bay cao hơn nơi ấy.

Khi đất chỉ là một bãi vuông
Hiện ra phía trước mắt con trông,
Thì nên quay lại thôi con nhé,
Ðừng táo bạo bay vút giữa không.

883. Santi aññepi sakuṇā pattayānā vihaṅgamā, akkhittā vātavegena naṭṭhā te sassatīsamā.

883. Cũng có những loài chim khác có sự di chuyển bằng cặp cánh, có sự đi lại ở không trung, bị cuốn đi bởi sức mạnh của gió; chúng bị bỏ mạng, trong lúc nghĩ rằng mình là trường cửu.”

Chim sải cánh bay tận cõi không,
Chúng thường gặp bão tố cuồng phong,
Khi đang nỗ lực lên cao mãi,
Vì chúng kiêu căng phải mạng vong.

884. Akatvā aparaṇṇassa pitu vuddhassa sāsanaṃ, kāḷe vāte atikkamma verambānaṃ vasaṃ gato.

884. “Chim kên kên Migālopa đã không làm theo lời dạy của con chim cha già cả tên Aparaṇṇa. Nó đã vượt quá làn gió đen và đã đi vào vùng tác động của các luồng gió Veramba.

Khinh lời khuyên nhủ thật khôn ngoan
Của đấng lão thân, gặp Hắc Phong,Tên gọi Ve-ram-bha Bão tố,

885. Tassa puttā ca dārā ca ye caññe anujīvino, sabbe vyasanamāpāduṃ anovādakare dije.

885. Các chim con, các con chim mái, và những những con chim khác sống phụ thuộc vào nó, tất cả đều gánh chịu điều bất hạnh khi con chim kên kên Migālopa không làm theo lời giáo huấn (của chim cha).

Vợ con, gia sản phải tan hoang.

6. Migālopajātakaṃ - Bổn sanh Kên Kên Migālopa

886. Evampi idha vuddhānaṃ yo vākyaṃ nāvabujjhati, atisīmaṃ caro ditto gijjhovātītasāsano, sabbe saṃkhya napapponti akatvā buddhasāsanan ”ti. 

886. Cũng y như vậy, ở đây người nào không nhận chân được lời nói của các bậc trưởng thượng, kẻ ấy có sự hành xử vượt quá giới hạn, cao ngạo, tựa như con chim kên kên đã vượt qua lời chỉ dạy. Sau khi không thực hành lời dạy của đức Phật, tất cả không đạt được sự hiểu biết.”

Do vậy những ai chẳng chú tâm
Nghe lời huynh trưởng vẫn khuyên răng,
Như chim kiêu mạn bay đi lạc,
Bất phục lệnh trên, gặp tử thần.

Câu chuyện 381

887. Kā nu kāḷena vaṇṇena na cāsi piyadassanā, kā vā tvaṃ kassa vā dhītā kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.

887. “Nàng nào có màu da đen, và không có vẻ đáng mến? Nàng là ai, hoặc là con gái của ai, làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”

Ai đây xanh thẩm hóa đen huyền,
Không khả ái đâu trước mắt nhìn,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi cô tiên?

888. Mahārājassahaṃ dhītā virūpakkhassa caṇḍiyā, ahaṃ kāḷī alakkhikā kāḷakaṇṇīti maṃ vidū, okāsaṃ yācito dehi vasemu tava santike.

888. “Thiếp là con gái của đại vương Virūpakkha có tánh dữ tợn. Thiếp là Kāḷī, là người nữ bất hạnh. Người ta biết rõ thiếp là Kāḷakaṇṇī. Được yêu cầu về chỗ ngụ, xin ngài hãy ban cho. Hãy để cho bọn thiếp cư ngụ bên cạnh ngài.”

Quảng Mục Thiên vương chính phụ thân,
Kà-li là Bất Hạnh, tai ương,
Xin ngài cho một phòng lưu trú
Kề cận ngài như dạ ước mong.

889. Kiṃ sīle kiṃ samācāre purise nivisase tuvaṃ, puṭṭhā me kāḷi akkhāhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.8

89. “Nàng để ý đến người nam có giới đức gì, có tánh hạnh gì? Này Kāḷī, được tôi hỏi, xin nàng hãy giải thích cho chúng tôi có thể biết về nàng.”

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

890. Makkhī paḷāsī sārambhī issukī maccharī saṭho, so mayhaṃ puriso kanto laddhaṃ yassa vinassati.

890. “Người nam nào có sự gièm pha, ác ý, hung hăng, ganh tỵ, bỏn xẻn, lường gạt, kẻ ấy, đối với thiếp, là người nam đáng yêu; (thiếp sẽ làm cho) phần tài sản của cải đã đạt được của kẻ ấy bị tiêu hoại.”

Giả dối, buông lung, cáu kỉnh luôn,
Vong ân, tật đố, dạ xan tham,
Ác nhân, ta giúp thành công để
Thắng lợi làm cho chúng diệt vong.

891. Kodhano upanāhī ca pisuno ca vibhedako, kaṇṭakavāco pharuso so me kantataro tato.

891. “Người nam nào giận dữ, thù hằn, đâm thọc, và là kẻ ly gián, có lời nói xóc xỉa, thô lỗ, kẻ ấy, đối với thiếp, là người nam đáng yêu hơn người kia.

Sâu hận lại còn thân thiết hơn,
Giao tranh, phỉ báng, lẫn hung tàn,

892. Ajjasuveti puriso sadatthaṃ nāvabujjhati, ovajjamāno kuppati seyyaso atimaññati.

892. Người nam không nhận chân được việc có lợi ích (nghĩ rằng): ‘Việc hôm nay, hãy để đến ngày mai,’ là kẻ bị bực tức trong khi được giáo huấn, khi dể người vượt trội mình.

Kẻ ngu không biết người lương thiện,
Oán ghét lời khuyên, lẫn thiện nhân.

893. Davappaluddho puriso sabbamittehi dhaṃsati, so mayhaṃ puriso kanto tasmiṃ homi anāmayā.

893. Người nam bị dính mắc vào các thú vui, bị các bạn bè ruồng bỏ, kẻ ấy, đối với thiếp, là người nam đáng yêu; thiếp không phải sầu khổ với kẻ ấy.”

Người nào hành động trí ngu si,
Bằng hữu thảy đều phải chán chê,
Kẻ ấy với ta là bạn đó,
Ta tìm lạc thú ở người kia.

894. Apehi etto tvaṃ kāḷi netaṃ amhesu vijjati, aññaṃ janapadaṃ gaccha nigame rājadhāniyo.

894. “Này Kāḷī, nàng hãy đi khỏi đây, các điều ấy không tìm thấy ở chúng tôi. Nàng hãy đi đến xứ sở khác, đến các thị trấn, đến các kinh thành.”

Kà-li, nàng hãy bước đi ngay,
Chẳng có gì vui thú ở đây,
Hãy đến các kinh thành xứ khác,
Biến nhanh ra khỏi chốn này.

895. Ahampi kho taṃ jānāmi netaṃ tumhesu vijjati, santi loke alakkhikā saṅgharanti bahuṃ dhanaṃ, ahaṃ devo ca me bhātā ubho naṃ vidhamāmase.

895. “Quả thật, thiếp cũng biết được chàng, các điều ấy không tìm thấy ở chàng. Ở thế gian có những kẻ không may mắn, họ tom góp được nhiều tài sản, thiếp và vị Thiên nhân anh trai của thiếp, cả hai người thiếp có thể làm tiêu tan tài sản ấy.”

Ta vẫn biết ngài rõ lắm thay,
Không gì vui thú ở nơi đây,
Những người ác tạo nhiều mưu kế,
Huynh đệ ta làm biến mất ngay.

896. Kā nu dibbena vaṇṇena pathabyā suppatiṭṭhitā, kā vā tvaṃ kassa vā dhītā kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.

896. “Nàng nào đã khéo hiện ra ở trái đất với màu sắc thuộc cõi Trời? Nàng là ai, hoặc là con gái của ai, làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”
 Ai đây màu sáng chói Thiên thần
Trên đất bình yên, dáng thật chân,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi tiên nương?

897. Mahārājassahaṃ dhītā dhataraṭṭhassa sirīmato, ahaṃ sirī ca lakkhī ca bhūripaññāti maṃ vidū, okāsaṃ yācito dehi vasemu tava santike.

897. “Thiếp là con gái của đại vương Dhataraṭṭha có sự vinh quang. Thiếp là Sirī, và là người nữ may mắn. Người ta biết rõ thiếp là Bhūripaññā. Được yêu cầu về chỗ ngụ, xin ngài hãy ban cho. Hãy để cho chúng tôi cư ngụ bên cạnh ngài.”

Trì Quốc Thiên vương chính phụ thân,
Ta là Hạnh Phúc, trí am tường,
Thế nhân tán tụng, xin an trú
Ðại sảnh cùng ngài dạ ước mong.

898. Kiṃ sīle kiṃ samācāre purise nivisase tuvaṃ, puṭṭhā me lakkhi akkhāhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.

898. “Nàng để ý đến người nam có giới đức gì, có tánh hạnh gì? Này người nữ may mắn, được tôi hỏi, xin nàng hãy giải thích cho chúng tôi có thể biết về nàng.”

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

899. Yo cāpi sīte athavāpi uṇhe vātātape ḍaṃsasiriṃsape ca, khudaṃ pipāsaṃ abhibhuyya sabbaṃ rattindivaṃ yo satataṃ niyutto, kālāgatañca na hāpeti atthaṃ so me manāpo nivaseva tamhi.

899. “Người nam nào chịu đựng tất cả các sự lạnh hoặc là nóng, gió và nắng, ruồi và các loài bò sát, đói, khát, người nam nào đêm ngày thường xuyên gắn bó (với bổn phận), và không bê trễ việc lợi ích khi thời điểm đến, người ấy là ưng ý đối với thiếp; thiếp để ý đến người ấy.

Người nào dù nóng, lạnh, phong ba,
Ðói khát, ruồi gây bệnh, độc xà,
Phận sự ngày đêm làm tròn vẹn,
Ta luôn quý mến sống cùng nhà.

900. Akkodhano mittavā cāgavā ca sīlūpapanno asaṭhojubhūto, saṅgāhako sakhilo saṇhavāco mahattapattopi nivātavutti.

900. Người nam nào không giận dữ, có sự thân thiện, và có sự xả thí, có giới hạnh, không lường gạt, có bản tính ngay thẳng, là người hào phóng, nói năng tử tế, có lời nói mềm mỏng, dầu đạt được địa vị lớn lao, cũng vẫn có thái độ khiêm tốn.

Nhã nhặn, thiết thân, hạnh chánh chân,
Khoan dung, thẳng thắn, dạ bình an,
Tín thành, thiện cảm, đầy kham nhẫn,
Ta điểm tô thêm mọi phước phần,

901. Tasmāhaṃ pose vipulā bhavāmi ummī samuddassa yathāpi vaṇṇaṃ, yo cāpi mitte athavā amitte seṭṭhe sarikkhe athavāpi hīne.

901. 902. Vì thế, ở nơi người nam ấy, thiếp trở nên không còn nhỏ bé, cũng giống như đối với những người đang quan sát màu sắc của biển cả, thì các làn sóng đang tiến đến chồng lên nhau đường như có vẻ đồ sộ. Và người nam nào, đối với bạn hay thù, đối với người xuất sắc, tương đương, hoặc kém cỏi, trong lúc thực hành điều lợi ích hay là không lợi ích, có thể vận hành sự tiếp độ trực tiếp hay gián tiếp, không nói lời thô lỗ bất cứ lúc nào, thiếp là thuộc về người nam ấy, dầu đã chết hay còn sống.

Như sóng lan dần trên biển cả,
Một màu sáng chói ngập trùng dương.Với bạn thân hay chẳng bạn thân,
Với người hơn, kém, hoặc ngang hàng,

902. Atthaṃ carantaṃ athavā anatthaṃ āvī raho saṅgahameva vatte, vācaṃ na vajjā pharusaṃ kadāci matassa jīvassa ca tassa homi.

Ác nhân hay cả cừu nhân nữa,
Dù tối trời hay giữa ánh quang,
Những kẻ nhân từ không ác ngữ
Tử sinh ta mãi kết thân bằng.

903. Etesa yo aññataraṃ labhitvā kantā sirī majjati appapañño, taṃ dittarūpaṃ visamaṃ carantaṃ karīsajātaṃ va vivajjayāmi.

903. Người nam nào đã đạt được một đức tính nào đó trong số các đức tính này, là kẻ thiểu trí (nghĩ rẵng): ‘Nàng Sirī đáng yêu say mê ta,’ thiếp tránh xa kẻ có bản chất ngạo mạn, đang hành xử không nhất quán ấy, tựa như tránh xa đống phân.

Song nếu kẻ ngu được mến thương
Lại sinh ngạo mạn với kiêu căng,
Con đường bất thiện đầy ngoan cố,
Ta tránh xa như một vũng bùn.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada